Text Box: TIN VUI

 

 

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Text Box: Số 47 CN 13.08.2006

 

 

Mục lục

 

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN..

TỰ ĐÀO TẠO THƯỜNG NGÀY..

Lễ Tấn Phong Ðức Tân Giám Mục Giuse Châu Ngọc Tri  

Toàn văn bản đúc kết cho Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ IV tại Hồng Kông..

Bản Tuyên Bố của Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV..

ĐỨC MARIA: ĐỊA CHỈ TRÊN CAO..

GIẢI MÃ DA VINCI VÀ TÔI

LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

ĐỨC MARIA – VẺ ĐẸP MUÔN THỦA CỦA TÌNH YÊU CỨU ĐỘ..

Ý NIỆM VỀ CON CÁI TRONG HÔN NHÂN..

MÙA BÁO HIẾU..

PHẢN BIỆN..

CHUYỆN SAU NGÀY CƯỚI

KHI NÀO NGÀY BẮT ĐẦU ?..

 

Text Box: SỐNG LỜI CHÚA
 

 

 


 

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN

13.08.2006

 

 

BÁNH TỪ TRỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

 

 

Bài Tin Mừng: Ga 6,41-51

 

 

Nếu là người được chứng kiến cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Do Thái trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chúng ta sẽ có suy nghĩ gì. Phải chăng, trước tiên chúng ta có cảm nhận như một cung đàn lạc điệu, khi Đức Giêsu đang nói về những sự trên trời, thì họ chỉ nghĩ đến những sự dưới đất; khi Đức Giêsu cố gắng diễn tả về sự sống siêu nhiên dành cho những ai tin vào Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống, thì họ chỉ nghĩ đến sự sống tự nhiên của một anh chàng thợ mộc Giêsu, con ông Giuse, như một người lao động tầm thường ở giữa họ. Nhìn lại đời sống đức tin của người Kitô hữu, chúng ta có thường dùng những suy nghĩ, tính toán, kiểu lập luận hợp lý của con người để chối bỏ sự hiện diện yêu thương đầy quyền năng của Thiên

Chúa không? Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tín hơn mỗi khi chúng ta tôn thờ và lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thực sự tin Đức Giêsu là bánh từ trời ban sự sống đời đời không?

 

 1. Đức Giêsu là bánh từ trời .

 

 Đối với người Do Thái, tin vào Đức Giêsu là bánh từ trời, là Con Thiên Chúa quả thực là một thách đố rất lớn lao. Làm sao họ có thể hiểu nổi một con người đang đứng trước mặt họ bằng xương bằng thịt, lớn lên từ một gia đình mà họ biết rõ cả cha lẫn mẹ, lại có thể từ trời xuống và trở nên bánh cho họ ăn được! Cảm thông với thái độ không tin của họ, Đức Giêsu tiếp tục phấn chấn họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Điều này có nghĩa là không ai có thể tự mình hiểu được mặc khải của Thiên Chúa, vì đức tin là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa quá vĩ đại đến nỗi con người không bao giờ dám mơ ước.

 

Quả thật, trong đức tin, chúng ta biết mình là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa đến ở cùng trong dáng dấp một con người mang tên Giêsu, cùng lao động với chúng ta, chung chia niềm vui nỗi khổ của kiếp người với chúng ta. Hơn nữa trong mầu nhiệm cứu độ, Giêsu đã gánh lấy tội lỗi cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Đặc biệt khi lập bí tích Thánh Thể, Giêsu đã yêu thương và nuôi dưỡng chúng ta bằng chính sự sống của Người. Vì thế, trong đức tin, mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, chúng ta được sống trong nhà Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu tiếp tục dâng hiến lễ Mình và Máu Người lên Chúa Cha; đồng thời Chúa Cha lại ban tặng người cho chúng ta như bánh từ trời, để khi rước lấy Người, chúng ta được hiệp thông với sự sống của Thiên Chúa.

 

 2. Đức Giêsu là bánh ban sự sống đời đời .

 

 Trong lịch sử nhân loại, bánh luôn luôn là thực phẩm nuôi sống mọi người. Đôi khi trong lịch sử cứu độ cũng có những hiện tượng lạ như man-na, bánh từ trời ban xuống nuôi sống dân Do Thái suốt 40 năm lưu lạc trong sa mạc, hay như bánh thiên thần hằng ngày mang đến cho tiên tri Elia trong hành trình 40 ngày từ sa mạc lên núi Chúa, giải tỏa những mỏi mệt, chán nản và tuyệt vọng trong sứ vụ để tiếp tục thi hành ý Chúa với đầy nghị lực tinh anh. Nhưng tất cả chỉ là dấu chỉ sự hiện diện yêu thương và chăm sóc của Thiên Chúa đối với con cái của Người. Còn trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến bánh và rượu thành Máu và Thịt Chúa để nuôi sống chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin về Nước Trời. Đồng thời Người còn hứa chắc chắn rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.

 

Đây là mầu nhiệm đức tin, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được rằng: mỗi khi chúng ta rước Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta được trở nên một với Chúa, và chính lúc chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng đã được hiện diện cùng với Chúa ở bên hữu Đức Chúa Cha rồi. Chính niềm tin này sẽ thắp sáng niềm hy vọng cho chúng ta trong hành trình dương thế, cho dẫu thân xác và trí tuệ chúng ta đang suy yếu, phân rã theo năm tháng, tuổi đời hay do bệnh tật lâu năm. Vâng, nếu có dịp săn sóc người thân yêu đau bệnh hay cao niên lãng trí, nhất là chứng kiến cảnh hấp hối đau đớn của họ, rồi đưa tiễn đến nơi an nghỉ trong lòng đất thánh, chúng ta sẽ cảm thấy niềm hy vọng vào sự sống đời đời cần thiết biết bao. Vì thế, trong điều kiện có thể, chúng ta hãy siêng năng đi dự lễ, rước Mình Thánh Chúa, đón nhận Chúa Giêsu vào lòng với xác tín vững vàng rằng Người là bánh hằng sống từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời cho những ai tin Người là con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian.

 

 3. Niềm tin của chúng ta.

 

Đối với Kitô hữu, ngay từ khi được rửa tội trong nước và Thánh Thần, chúng ta đã đón nhận và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. Đấng đã ban cho chúng ta không chỉ sự sống kỳ diệu nơi thân xác nhưng còn ban sự sống siêu nhiên là chính sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa muốn ban hồng ân đức tin này cho tất cả mọi người, nhưng chỉ những ai mở lòng ra mới có thể đón nhận, đó là những người hiền lành, khiêm tốn nhận biết mình và cả vũ trụ này đều là tạo vật của Thiên Chúa.

 

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã nói: “Ai tin sẽ được sống đời đời”, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con mỗi khi chúng con nghe lời Chúa, để tâm trí chúng con tràn đầy niềm vui và hạnh phúc đón nhận ân sủng của Chúa mọi ngày trong đời chúng con, nhất là mỗi khi chúng con đến tôn thờ Thánh Thể và rước Chúa là nguồn sống, nguồn tình yêu ngự vào lòng chúng con. Đồng thời, xin Chúa hãy dùng chúng con như những sứ giả của Chúa để chia sẻ ánh sáng đức tin đến với tất cả mọi người chưa được nghe biết rõ về danh thánh và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, được mời gọi đến với Chúa để được bổ sức bằng chính bánh từ trời ban sự sống đời đời. Amen.

 

   

 Nữ tu Têrêsa Phạm Thị Oanh

     Dòng Đaminh Tam Hiệp

Mục lục

 

Text Box: CON ĐƯỜNG TU ĐỨC 
 

 

 


 

TỰ ĐÀO TẠO THƯỜNG NGÀY

 

Từ ít lâu nay, nhất là trong mấy ngày này, vấn đề giáo dục đạo đức đã bùng lên sôi nổi trong khắp nước Việt Nam.

 

Những người đánh thức lương tâm đang được báo chí nhiệt liệt mừng khen lúc này là những người không công giáo.

 

Sự kiện này gợi ý cho nhiều người công giáo có tâm huyết nhìn vào nội bộ của mình.

 

Họ tự hỏi: Đạo đức trong Hội Thánh Việt Nam đang đi lên, hay đang xuống dốc? Việc giáo dục đạo đức hiện nay trong các gia đình, trong các giáo xứ, trong các chủng viện, trong các nhà dòng, trong các tổ chức, có đóng góp được phần nào đáng kể trong việc chấn hưng đạo đức cho xã hội Việt Nam không?

 

Do nhận thức vấn đề giáo dục đạo đức đang được nhiều người công giáo đặt ra cho chính mình, tôi xin phép nêu lên một phương cách tự đào tạo mình. Nội dung phương cách này cốt yếu là cầu nguyện và làm một số việc theo định hướng Phúc Âm. Điều quan trọng mà phương cách này đòi hỏi là phải thực hiện thường xuyên. Nên dựa vào Kinh Thánh, để mỗi người chúng ta sống theo tiếng Chúa gọi mình.

 

1/ Chúa gọi ta nên người sám hối

 

Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, (...), kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội" (Lc 24,46-47).

 

Sám hối là một tiếng Chúa gọi tha thiết. Sám hối là một đặc điểm quan trọng của người sống đạo. Ta có nhiều cách để sám hối. Một cách rất tốt là sám hối bằng cầu nguyện theo Kinh Thánh, thí dụ những lời thánh vịnh sau đây:

 

"Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con.

Mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.

Xin rửa con sạch hết lỗi lầm,

tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy" (Tv 50,3,4).

 

Trong sám hối, cần tấm lòng hết sức khiêm nhường. Đừng tự ái kiêu ngạo. Nhưng hãy khiêm tốn như vua Đavít nhận mình mang mầm sự ác, ngay từ nhỏ, do đó phát sinh ra biết bao lỗi lầm thiếu sót như tội cá nhân, tội tập thể, tội cơ chế.

 

"Xin Chúa thấy cho: Lúc chào đời, con đã vương tội lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai" (Tv 51,7).

 

Ám ảnh về tội không là đạo đức. Nhưng khiêm nhường nhìn nhận mình yếu đuối là điều không thể thiếu trong đạo đức Phúc Âm. Chẳng may ý thức về tội đang là một khủng hoảng lớn của thời buổi này. Nếu người có đạo cũng sống trong khủng hoảng đó, mà vẫn cảm thấy an tâm hạnh phúc, thì họ còn gì để góp phần vào việc chấn hưng đạo đức cho xã hội hôm nay?

 

Hãy thành khẩn đáp lại tiếng Chúa gọi sám hối. Thêm vào đó, hãy nghe tiếng Chúa gọi yêu thương.

 

2/ Chúa gọi ta nên người yêu thương

 

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu trối lại một điều răn mới. Người phán: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).

 

Chúa Giêsu đã triển khai điều răn yêu thương theo nhiều chi tiết. Như về sự xét đoán: "Đừng xét đoán nhau, để khỏi bị Chúa xét đoán. Các con xét đoán người khác thế nào, thì các con cũng bị Chúa xét đoán các con như vậy" (Mt 7,12).

 

Như về việc phục vụ: "Ai muốn làm lớn giữa các con, thì phải là người phục vụ các con... Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,26-28).

 

Như đừng dửng dưng trước cảnh khổ của người khác. Chúa nói rõ điều đó trong dụ ngôn người phú hộ. Người phú hộ sống phè phỡn hưởng thụ, dửng dưng bên cạnh người ăn mày Lagiarô, chết rồi ông bị Chúa ném xuống hoả ngục (x. Lc 16,19-31).

 

Nhất là về cách Chúa phân biệt kẻ lành người dữ. Phúc Âm thánh Matthêu tả ngày phán xét chung theo một tiêu chuẩn đơn sơ, đó là bác ái. Bất cứ việc gì lành ta làm cho kẻ thiếu thốn sẽ được Chúa kể như ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25,31-46).

 

Hiện nay, cảnh phân hoá giàu nghèo tại đất nước ta đang là một thực tế nhức nhối gây đau xót cho những người có cái tâm bén nhạy. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi sợ, nếu không để ý làm chứng cho Chúa bằng đời sống thương cảm và chia sẻ với tầng lớp người nghèo khổ đau, thì nhiều người đạo ta sẽ dần dần tự đứng ra ngoài lề xã hội, bởi vì Chúa không phù hộ những ai cố tình làm sai thánh ý Chúa.

Ngoài ra, Chúa cũng đang gọi ta nên người ca tụng Chúa.

 

3/ Chúa gọi ta nên người ca tụng Chúa

 

Ca tụng, cảm tạ Chúa với hết lòng mến tin là một việc Chúa luôn gọi con cái Người thực hiện. Cảm tạ vì muôn vàn ơn Chúa đã và đang ban cho ta. Không phải chỉ về những thuận lợi, mà cả về những thử thách đớn đau Chúa gởi đến cho ta, để ta được thanh luyện, lập công đền tội và được thông hiệp vào cuộc khổ nạn cứu chuộc của Chúa Giêsu.

 

Nhất là cảm tạ Chúa về ơn Chúa thương cứu ta khỏi bao nguy khốn.

 

"Lạy Chúa, con xin tán dương Người

vì đã thương cứu vớt con" (Tv 30,2).

 

Mỗi lần nhìn vào mình, nhận thấy mình yếu hèn, tội lỗi, bất xứng, nhưng đã được tình xót thương Chúa tha thứ, chở che, dắt dìu qua bao nhiêu chặng đường lịch sử khó khăn, tôi lại nhớ lời thánh vịnh xưa:

 

"Lạy Chúa, vì yêu thương,

Người đã đặt con trên núi an toàn" (Tv 30,8).

"Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Chúa đã cho con bình phục" (Tv 30,3).

 Bình phục về nhiều mặt.

 

Lòng biết ơn cảm tạ Chúa chính là nguồn ơn thánh giúp ta thực hiện bổn phận hiếu thảo đối với Đất Nước, Hội Thánh và những người đã góp phần đào tạo giáo dục và nâng đỡ ta. Bài ca chúc tụng Chúa được coi là hay nhất chính là con người đạo đức của ta.

 

Trên đây là một gợi ý nhỏ. Tôi mong sẽ có nhiều gợi ý khác, góp phần vào việc chấn hưng đạo đức trong nội bộ Hội Thánh Việt Nam ta. Dù gợi ý là to hay nhỏ, nó phải rút ra từ Phúc Âm, có sức kéo được ơn thánh vào các tâm hồn.

 

Xin Chúa giúp chúng ta nhìn rõ vấn đề và thấy được thánh ý Chúa trong việc giải quyết vấn đề.

nhận ân sủng của Chúa mọi ngày trong đời chúng con, nhất là mỗi khi chúng con đến tôn thờ Thánh Thể và rước Chúa là nguồn sống, nguồn tình yêu ngự vào lòng chúng con. Đồng thời, xin Chúa hãy dùng chúng con như những sứ giả của Chúa để chia sẻ ánh sáng đức tin đến với tất cả mọi người chưa được nghe biết rõ về danh thánh và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, được mời gọi đến với Chúa để được bổ sức bằng chính bánh từ trời ban sự sống đời đời. Amen.

 

                                                                            

ĐGM .GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

Text Box: HIỆP THÔNG GIÁO HỘI 
 

 


 

Lễ Hiển Dung mời gọi tín hữu mở đôi mắt con tim nhìn mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử cứu độ

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã giải thích lễ Hiển Dung như trên trong bài huấn dụ trước Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 6-8-2006 tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: ”Anh chị em thân mến, trong ngày Chúa Nhật hôm nay thánh sử Mạccô kể lại rằng Chúa Giêsu đem ba tông đồ Phêrô, Giacôbe và Gioan lên núi cao với Người và biến hình trước mặt các ông. Y phục Người trở thành sáng láng đến độ ”không có thợ nào trên trần gian có thể giặt trắng được như vậy” (Mc 9,2-10). Ngày hôm nay phụng vụ mời gọi chúng ta tập trung cái nhìn vào mầu nhiệm ánh sáng này. Trên gương mặt của Chúa Giêsu dãi tỏa một ánh sáng thiên linh, mà Người đã giữ gìn trong cùng thẳm tâm lòng. Chính ánh sáng đó sẽ rạng ngời trên gương mặt Chúa Kitô trong ngày Phục Sinh. Trong nghĩa này sự Hiển Dung diễn tả trước mầu nhiệm phục sinh.

Tiếp đến ĐTC giải thích ý nghĩa sự hiển dung như sau: ”Sự Hiển Dung mời gọi chúng ta mở đôi mắt con tim để nhìn mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn lịch sử cứu độ. Ngay từ đầu của việc tạo dựng, Đấng Toàn Năng đã phán: ”Hãy có ánh sáng” (St 1,2), và ánh sáng tách rời khỏi bóng tối. Cũng giống như các thụ tạo khác, ánh sáng là một dấu chỉ vén mở cho thấy một cái gì đó của Thiên Chúa: nó phản ánh vinh quang của Người, vinh quang đi kèm theo các lần Thiên Chúa tự tỏ hiện. Khi Thiên Chúa hiện ra, ”Chúa rực rỡ khác nào ánh sáng, mở đôi tay tỏa chiếu hào quang” (Kb 3,3). Trong các thánh vịnh ánh sáng là áo choàng của Chúa (x. Tv 104,2). Sách Khôn Ngoan dùng biểu tượng ánh sáng để miêu tả chính bản thể của Thiên Chúa: sự khôn ngoan, phát xuất từ vinh quang của Thiên Chúa, ”phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu”, cao trọng hơn mọi ánh sáng được dựng nên (Kn 7,27.29 tt.). Trong Tân Ước chính Chúa Kitô tỏ hiện tràn đầy ánh sáng của Thiên Chúa. Sự sống lại của Người đã vĩnh viễn đánh bại bóng tối của sự dữ. Với Chúa Kitô phục sinh khải hoàn, sự thật và tình yêu chiến thắng gian dối và cái chết. Nơi Người, ánh sáng của Thiên Chúa từ nay vĩnh viễn soi sáng cuộc sống con người và dòng lịch sử. Chúa khẳng định trong Phúc âm: ”Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có được ánh sáng sự sống” (Ga 8,12)

Áp dụng vào trong cuộc sống của tín hữu trong hiện tình thế giới ngày nay, Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: ”Cả trong thời nay nữa chúng ta cũng cần bước ra khỏi bóng tối của sự dữ biết bao, để có thể sống kinh nghiệm niềm vui của ánh sáng! Xin Mẹ Maria, mà chúng ta mới kính nhớ hằng năm trong lễ cung hiến đền thờ Đưc Bà Cả hôm qua, giúp chúng ta có được ơn ấy! Ngoài ra, xin Trinh Nữ Rất Thánh cho các dân tộc Trung Đông, đang lâm cảnh huynh đệ tương tàn, được hòa bình! Chúng ta biết rằng hòa bình trước hết là ơn Chúa ban, cần phải kiên trì khẩn nài trong lời cầu ngyện, nhưng trong lúc này đây chúng ta cũng muốn nhắc lại rằng nó là dấn thân của tất cả mọi người thiện chí. Ước chi đừng có ai trốn tránh nhiệm vụ này! Vì vậy trước sự cay đắng thấy rằng cho tới nay các lời kêu gọi ngưng chiến trong vùng đất khốn khổ này đã không được lắng nghe, tôi khẩn thiết lập lại lời kêu mời trong nghĩa đó: xin tất cả mọi người góp phần cụ thể vào việc xây dựng một nền hòa bình công bằng và lâu bền. Tôi xin phó thác lời tái kêu mời này cho sự bầu cử của Đức Nữ Trinh Rất Thánh”.

Sau kinh đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho tín hữu Đức Thánh Cha đã nhắc đến biến cố Đức Giáo Hoàng Phaolô VI qua đời ngày Chúa Nhật Hiển Dung mùng 6 tháng 8 năm 1978 cách đây 28 năm. Ngài nói với hơn 4000 tín hữu và du khách hành hương tụ tập trong sân và ngoài công trường nhà nghỉ mát Castel Gandolfo như sau: ”Giờ đây tôi xin chào các khách hành hương ngoại quốc đến hiệp ý cầu nguyện chung với chúng ta. Trong ngày Chúa Nhật lễ Chúa Hiển Dung hôm nay, tôi không thể không nhớ đến một Chúa Nhật tương tự khác, trong đó các tín hữu hành hương tụ tập về Castel Gandolfo, nhưng đã không được đọc kinh Truyền Tin với Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vì các điều kiện sức khỏe của người lúc đó đã rất trầm trọng: như anh chị em biết, vào chiều ngày mùng 6 tháng 8 năm 1978 Đức Phaolô VI đã an nghỉ trong Chúa. Chúng ta tưởng nhớ người trong ngày kỷ niệm này với tâm lòng biết ơn Thiên Chúa, đã ban cho Giáo Hội Người một chủ chăn như thế trong những năm quan trọng của Công Đồng Chung Vaticăng II và sau Công Đồng”.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan và chúc mọi người một ngày Chúa Nhật an lành. Ngài đặc biệt cám ơn tín hữu Castel Gandolfo đã biếu tặng ngài trái cây trong ngày lễ trái Đào, mừng hằng năm vào đầu tháng 8.

LTK

Mục lục

 

 

 Lễ Tấn Phong Ðức Tân Giám Mục Giuse Châu Ngọc Tri tại Nhà Thờ Chính Tòa Ðà Nẵng.

 

(Tin Việt Nam 4/08/2006) - Ngay từ 4 giờ sáng thứ Sáu, ngày 4 tháng 8 năm 2006, hàng ngàn giáo dân, tu sĩ, từ các giáo xứ của Giáo Phận Ðà Nẵng và từ khắp nơi trong nước và ngoài nước, đã đứng chật sân Nhà Thờ Chính Tòa Ðà Nẵng, để tham dự Thánh Lễ Tấn Phong Cha Giuse Châu Ngọc Tri, làm Tân Giám Mục Chính Tòa Ðà Nẵng. Thánh Lễ Tấn Phong Tân Giám Mục được bắt đầu lúc 5 giờ sáng, khi đoàn rước, --- gồm có 23 vị giám mục, một đan viện phu, hàng trăm linh mục trong và ngoài giáo phận, những đại diện cho các dòng tu hoạt động trong giáo phận Ðà Nẵng, các chủng sinh, và những đại diện cho các giáo xứ thuộc giáo phận --- tiến ra lễ đài, được dọn nơi Sân trước Nhà Thờ Chính Tòa Ðà Nẵng.

Vị chủ phong là Ðức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tỉnh, nguyên giám mục Ðà Nẳng; Hai vị phụ phong là Ðức Tổng Giám Mục Huế Têphanô Nguyễn Như Thể, và Ðức Giám Mục Hưng Hóa Antôn Vũ Huy Chương.

Ðược biết Ðức Tân Giám Mục Ðà Nẵng, Giuse Châu Ngọc Tri, sinh ngày 12 tháng 9 năm 1956, tại Thôn Phước Ấm, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, giáo phận Ðà Nẵng, trong gia đình có 8 người con. Thân Phụ là Ông cố Anrê Châu Ngọc Hiệu, qua đời năm 2003; và Thân Mẫu là bà Lucia Nguyễn Thị Chín, hiện đã 87 tuổi.

Khẩu hiệu giám mục của Tân giám mục Ðà Nẵng là "Trời mới Ðất mới", trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, chương 21 câu 1. Chính Ðức Tân Giám Mục đã giải thích khẩu hiệu này như sau: "Trời mới, Ðất mới" hướng chúng ta về phía trước, với sự canh tân đổi mới để thăng tiến không ngừng, từ bản thân đến tập thể, từ tư tưởng đến hành động, từ giáo hội đến thế giới, theo tinh thần của Tin Mừng và đường hướng mục vụ của Công Ðồng Vaticanô II. "Trời mới Ðất mới" còn là khung trời của hạnh phúc thật đáng ước mơ. Chúng ta không những chỉ ngồi đợi chờ, mà phải hăng hái góp phần xây dựng, bằng những nổ lực sống và làm chứng cho "Giới Răn Mới" của Ðức Kitô: giới răn của Yêu thương và hiệp nhất".

Cuối thánh lễ Tấn Phong, Ðức Tân Giám Mục đã nói những lời cám ơn và bộc lộ những tâm tình của mình bằng những lời như sau:

"Ðứng trước Cộng đoàn Dân Chúa đông đảo, xúng xính và ngượng ngập khi lần đầu tiên trong phẩm phục giám mục khá lộng lẩy, tôi cảm thắy mình thật xa lạ với cả chính mình. Và hơn bao giờ hết, tôi cũng cảm thấy mình thật nhỏ bé. Nhỏ bé trước Hồng Ân quá lớn lao từ Thiên Chúa và Mẹ Hội Thánh. Nhỏ bé trước cộng đoàn đông đảo của một giáo hội Việt Nam thu nhỏ, và những người anh em lương dân, đại diện các tôn giáo bạn, đang hiện diện hiệp nguyện cùng tôi, đang hướng về tôi với ánh mắt yêu thương và khích lệ. Nhỏ bé mọn hèn, nhưng tôi cảm thấy thật bình an và hạnh phúc.

Gói ghém bao tâm tình ý tứ của tôi lúc này, chính là lòng biết ơn. Tôi xin được công khai nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Mẹ, tạ ơn Gíao Hội và Quê Hương Dân tộc tôi. Cám ơn Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI và Thánh Bộ truyền giáo, đã tin tưởng gọi mời con, cám ơn Ban Thường Vụ và Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, đã quảng đại đón nhận con. Cám ơn mọi thành phần Dân Chúa trong và ngoài giáo phận, trong ngoài nước, đã yêu thương, cầu nguyện, hiện diện nâng đỡ tôi trong sứ vụ mới, bắt đầu từ hôm nay.

50 năm cuộc đời, tôi thấy mình ngập tràn Ơn Chúa tình người... Trong giây phút lịch sử này, tôi không quên tất cả những ai đã đồng hành với tôi cách nầy hay cách khác trong cuộc đời, hiện diện hay vắng mặt, còn sống hay đã chết... Giờ đây, không còn giữ riêng cho mình được nữa, tôi muốn hô vang lên: Tôi biết ơn và yêu mến mọi người, trong tình yêu Thiên Chúa.

Cuối cùng, Ðức Tân Giám Mục Ðà Nẵng xin mọi thành phần giáo phận Ðà Nẵng "thương đón nhận" ngài với tất cả sự bất toàn. Ðức Cha xin mọi người hãy cầu nguyện và nâng đỡ ngài. Ðức Cha chia sẻ tiếp như sau: "Tiếng gọi đầu tiên tôi muốn gởi đến anh chị em hôm nay là: sum hợp, là đoàn kết, là yêu thương gắn bó. Cùng nhau tạ ơn Chúa và biết ơn các vị Chủ Chăn, đặc biệt 3 Ðức Cha tiền nhiệm; Ðức Cha Phêrô Maria, giám mục tiên khởi, mà hôm nay cũng là ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của ngài. Ðức Cha Phanxicô Xaviê kính mến, sắp mừng Kim Khánh Linh Mục vào ngày 8 tháng 8 (năm 2006). Ðức Cha Phaolô Tịnh vừa xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ. Thừa kế tinh thần và gia sản của các ngài, chúng ta lòng chung lòng, tay trong tay, cùng hướng về phía trước, tiếp tục xây dựng giáo phận ngày thêm vững mạnh, hướng tới "Trời mới Ðất mới".

Bằng tiếng Pháp, Ðức Tân Giám Mục Ðà Nẵng cũng đã cám ơn đặc biệt quý cha quý thầy thuộc Hội Thừa Sai Paris, về bốn năm tu nghiệp tại Pháp, từ năm 1998 đến năm 2002.

Lm. Đặng Thế Dũng

Theo Radio Veritas

 

Toàn văn bản đúc kết cho Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ IV tại Hồng Kông

 

Hồng Kông: 800 bạn trẻ từ 25 quốc gia trong đó có Việt Nam đã đến Hồng Kông tham dự Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV từ ngày 30/7-5/8/2006, trong Thánh Lễ bế mạc hômg 4/8 các bạn trẻ đã đưa ra Bản Tuyên Bố chung.

 

Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV với chủ đề : "Giới Trẻ, Nguồn Hy Vọng của Gia Đình Á Châu", các bạn trẻ đã thảo luận và suy nghĩ về gia đình, cùng chia sẻ quan điểm của mình.

Trong bản Tuyên Bố chung, các bạn trẻ đã trình bày chung những cảm nghĩ, những sự nhận thức và những thách đố ngày nay. Cuối cùng các bạn đã đề xuất lên Giáo Hội địa phương, đặc biệt đến việc xử dụng mạng lưới Internet để giúp đỡ và hướng dẫn các bạn trẻ tìm ra những "câu trả lời" trong cuộc đời.

Các bạn trẻ đã nhận thức khẳng định rằng giới trẻ có thể trở thành nguồn hy vọng để nâng cao gia đình ngay cả khi họ đã phải phấn đấu trước những nghịch cảnh xấu và trải qua những hoàn cảnh khó khăn.

Ngày Gìới Trẻ Á Châu kỳ I được tổ chức tại Hua Hin, Thái Lan vào năm 1999, kỳ II được tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan vào năm 2001 và kỳ III vào năm 2003 tại Bangalore, Ấn Độ.

Sau đây là toàn văn của bài:

Bản Tuyên Bố của Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV

Giới Trẻ, Nguồn Hy Vọng của Gia Đình Á Châu


Làng Giới Trẻ YMCA, Hồng Kông


30 Tháng Bảy - 5 Tháng Tám, 2006

Giới Thiệu

Á Châu là nơi sinh sống của khoảng 60% giới trẻ trên thế giới. Giới trẻ không những là tương lai cho thế giới nhưng còn là những kho tàng quý giá hiện tại của Giáo Hội. Cuộc tập họp Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV (AYD VI) được sự bảo trợ của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC), suy tư trên chủ đề "Giới Trẻ, Nguồn Hy Vọng của các Gia Đình Á Châu" là một sự khẳng định những hồng ân của tuổi trẻ, sức lực và lòng nhiệt thành để linh cảm tới một chiều kích cao hơn như những biểu tượng sống động của niềm hy vọng. Chủ đề Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV được linh ứng do Tổng Hội Nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu lần VIII tại Daejeon, Triều Tiên vào tháng Tám 2004 với chủ đề "Gia Đình Á Châu- Hướng Về một Văn Hóa Hội Nhập Đời Sống".

Đến từ Bangladesh, Cambodia, Trung Hoa, Hồng Kông, Nam Duơng, Ấn Độ, Nhật Bản, Triều Tiên, Lào, Macao, Mã Lai, Mông Cổ, Miến Điện, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Tích Lan, Thái Lan, Đài Loan, Turkmenistan, Việt Nam và những người khách từ Bỉ Quốc, Pháp, Đức, Kenya, Tanzania và Hà Lan, giới trẻ cùng đi với các giám mục của họ, những người lãnh đạo/ hoạt náo viên đã hăng say miệt mài đi vào tiến trình buổi họp từ 30 Tháng Bảy cho tới 5 Tháng Tám, 2006.

Những Kinh Nghiệm:

* Tiến trình suy tư đã bắt đầu với những khóa họp ở trong quốc gia mình dựa trên chủ đề, và "gạo" tượng trưng được chọn để làm đặc trưng cho AYD IV. Gạo là lương thực chính tại hầu hết quốc gia ở Á Châu, là một sự nhắc nhớ đến sự tụ họp chung quanh một bữa cơm gia đình và nhắc nhở đến những chúc lành của Thiên Chúa.

* Khi tới Hồng Kông, các bạn trẻ từ các quốc gia hải ngoại được đón tiếp ở một vài ngày với một gia đình chủ nhà để giúp họ cảm nghiệm đến đời sống trong một gia đình/ giáo xứ tại Hồng Kông. Cảm nghiệm đến sự tiếp đón của gia đình sẽ giúp bạn trẻ dấn thân trên một hành trình đức tin, trao đổi văn hóa và mở rộng tầm nhìn của họ đến người Á Châu.

* Mỗi buổi sáng trong ngày được bắt đầu bằng buổi cầu nguyện và phần "chung gạo" khi các phái đoàn bỏ một nắm gạo được mang từ quốc gia mình vào một cái thùng lớn, như một dấu chỉ chia sẻ cho nhau niềm vui và những chúc lành của gia đình.

* Giải thích tài liệu làm việc của Tổng Hội Nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) đưa ra thực tại của gia đình Á Châu và viễn tượng của Giáo Hội đối với gia đình. Các bản tường trình từ các quốc gia và "chặng đường"đi qua các phòng triển lãm của các quốc gia khác nhau, đã giúp đào sâu cảm nghiệm thực tiễn đến gia đình Á Châu, chia sẻ và cảm nhận đến những sinh khí và ấn tượng của họ. Nó cũng giúp người trẻ cảm kích đến văn hóa đa dạng tại Á Châu.

* "Chặng Đường Giới Trẻ", là một kinh nghiệm cầu nguyện và suy tư trên nhiều lãnh vực, theo đó đã giúp thách thức bạn trẻ trở nên nguồn hy vọng của các gia đình Á Châu. Mỗi nhóm được coi là một gia đình để trở nên một khí cụ ràng buộc, yêu thương và chăm sóc lẫn nhau.

* Buổi sinh hoạt sống động vào mỗi buổi họp qua các bài hát/ thánh ca, đã tạo bầu khí có được sức sống và lòng nhiệt tâm.

* Những buổi học hỏi theo chủ đề và các chứng từ liên quan đến nhiều lãnh vự khác nhau trong đời sống gia đình và đức tin đã giúp bạn trẻ có một sự hiểu biết sâu xa thực sự thế nào để họ có thể trở nên những dấu chỉ nguồn hy vọng trong chính gia đình của họ.

* Phần chia sẻ của các phái đoàn liên tôn đã giúp giới trẻ hiểu biết nhiều hơn đến đời sống gia đình theo những truyền thống tôn giáo khác nhau.

* Buổi cầu nguyện theo kiểu Taize đã cung cấp một môi trường lành mạnh cho việc chiêm niệm và cầu nguyện hồi tâm một cách sâu xa.

* Sau một tuần suy tư, chia sẻ, cầu nguyện và hiệp thông qua Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV, chúng con nhận thức rằng giới trẻ có thể đóng một vai trò quan trọng trong gia đình, để có thể gặt hái mối quan hệ thương yêu và sự hòa thuận. Cử hành Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày nhắc nhở họ đến tầm quan trọng của mầu nhiệm Thánh Thể sống động hằng ngày để trở nên cuộc sống cho đi trong gia đình họ".

Những Nhận Thức Sâu Xa:

* Một gia đình là một đời sống thánh thiêng. Con cái trong gia đình Á Châu được yêu thương như những quà tặng từ Thiên Chúa. Cha mẹ đã có một sự hy sinh rất lớn để cống hiến sự nuôi dưỡng và giáo dục con cái họ.

* Gia đình Á Châu đang phấn đấu đối đầu đến những khó khăn trong nhiều mặt khác nhau như nghèo đói, di cư, sự bất an về chính trị và sự thoái hóa môi trường theo mặt kinh tế toàn cầu. Và rồi chúng con tin rằng nguồn sức mạnh tiếp tục vẫn là gia đình.

* Gia đình không chỉ là đối tượng chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, gia đình còn là tuyến đầu của những cố công trong Giáo Hội để mang Tin Mừng đến cho con người.

* Các gia đình giữ một vị thế rất quan trọng trong nền văn hóa Á Châu. Các giá trị gia đình như đạo làm con, yêu thương và chăm sóc cho người già, người thế cô, tình thương yêu con cái và hòa thuận đã được quý trọng trong tất cả nền văn hóa Á Châu và tuyền thống Tôn Giáo.

* Tại các vùng nông thôn, ngày nay dường như gia đình không còn thời gian dành, chia sẻ và chăm sóc cho nhau.

* Không gia đình nào có thể nói là vô dụng trước mắt Thiên Chúa.

* Hôn nhân là một sự cam kết suốt đời và gia đình là một cơ cấu thánh mà Thiên Chúa đã can dự vào.

* Bạn trẻ không nên đánh mất niềm hy vọng khi trải qua khó khăn và thất bại trong hành trình của gia đình họ khi hướng về canh tân, đức tin và cầu nguyện của họ cũng như cộng đoàn có thể chấp nhận họ.

* Quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống họ, giới trẻ có thể trải qua nhiều sự cô đơn và tuyệt vọng khi gia đình gặp khủng hoảng.

* Một gia đình phải đoàn kết trong tình thân thuộc và được bén rễ trong lời cầu ngưyện.

* Khi gia đình được củng cố và nuôi dưỡng, những lợi ích chung hy vọng được thăng tiến và được đề cao.

Những Thử Thách:

* Hãy mang sự hòa giải và hy vọng trở về với gia đình.

* Hãy giúp đề xướng sự đối thoại và giao tiếp trong gia đình để nâng cao sự hiểu biết.

* Hãy trau dồi sự thực hành dành thời gian đồng đều để nói chuyện lắng nghe lẫn nhau và cầu nguyện trong gia đình.

* Cổ võ sự bình đẳng nam nữ trong các gia đình.

* Thúc đẩy tất cả bạn trẻ hãy là những công cụ cho hòa bình và là hạt giống tình yêu trong gia đình họ.

* Hãy tạo cho gia đình là một tình yêu, đời sống và hiệp thông thánh thiêng ngõ hầu tất cả mọi người trong gia đình cảm thấy được chấp nhận, được chăm sóc và được cảm kích.

* Thật là một nhu cầu cho các gia đình để thành mạng lưới trong những Cộng Đoàn Kitô Nhỏ, để huấn luyện, nâng đỡ và thực hiện sứ mạng đúng đắn cho gia đình và để xây dựng một xã hội công bằng hơn.

* Các gia đình Á Châu được kêu gọi để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Giêsu trong những thời điểm và hoàn cảnh khó khăn, khi mà chính gia đình bị đe dọa bởi một chuỗi những ảnh hưởng xấu.

* Các thành viên trong gia đình, đặt biệt là giới trẻ, được đòi hỏi để sống đời sống thường ngày của mình trong gia đình với tình yêu khôn tả.

* Với sức mạnh của đức tin và cầu nguyện, bạn trẻ Á Châu phải khám phá chỗ đứng và vai trò của họ trong gia đình và trong xã hội.

Những Đề Nghị

Chúng con khẩn xin Giáo Hội địa phương:

* Hãy giúp và nâng đỡ các bạn trẻ chúng con trong hành trình đức tin và đời sống cầu nguyện của mình.

* Mở ra các chương trình vọng lại trên chủ đề "Giới Trẻ, Nguồn Hy Vọng của Các Gia Đình Á Châu" để giúp giới trẻ trở thành "những người mang đến niềm hy vọng" trong gia đình họ.

* Mở mang trong giáo xứ cho giới trẻ cảm thấy sự thân thiện, xử dụng các phương thức thích hợp để suy tư và góp ý để linh cảm giới trẻ củng cố sự liên hệ gia đình.

* Tận dụng Internet một cách hữu hiệu để trợ giúp và hướng dẫn giới trẻ là những người đi tìm "những câu trả lời" trong lúc tìm kiếm trên mạng lưới.

* Đơn giản hóa học thuyết xã hội của Giáo Hội để sao cho họ có thể đọc dễ dàng hơn và được phổ biến một cách rộng rãi hơn tới giới trẻ.

Kết Luận:

Chúng con tin rằng đó là những hạt giống đức tin của giới trẻ Á Châu. Nếu đức tin này được dưỡng dục tốt, họ thực sự có thể là nguồn hy vọng của gia đình Á Châu. Giới trẻ hiện diện ở đây trở về được nung đốt với lòng nhiệt huyết và quyết tâm lãnh nhận thử thách để trở nên "những người mang đến niềm hy vọng". Mặc dầu gia đình chúng con phấn đấu trước một văn hóa chết, chúng con thấy được những sự khả thi cả thể cho giới trẻ chúng con để trở nên một nguồn Hy Vọng để giúp nâng cao gia đình. Chúng con phó thác Giới Trẻ Á Châu của chúng con lên Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu xin Mẹ là nơi để họ nương náu trong những lúc gặp gian truân.

Chúng con thành thật cám ơn chủ nhà, là Giáo Phận Hồng Kông đã giúp Tổ Giới Trẻ FABC với sự tổ chức của Ngày Giới Trẻ Á Châu kỳ IV này, được tham dự ngày qua ngày một cách hiệu quả cùng với những chương trình được thực hiện một cách trôi chảy. Chúng con cầu xin Thiên Chúa chúc lành đến những bạn trẻ nhiệt tình là những người thiện nguyện để giúp tổ chức, qua sự hy sinh thời gian và cống hiến tài năng và sự tinh xảo sắp xếp các chương trình của AYD IV. Xin Chúa trả công bội hậu cho lòng rộng lượng của họ.

(Ngọc Vân chuyển ngữ)

Mục lục

 

 

Text Box: TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
 

 

 


 

ĐỨC MARIA: ĐỊA CHỈ TRÊN CAO

 

Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền cầu chứng. Chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để mỗi đêm trăng sáng có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.

 

Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm sau lễ Đức Maria Mông Triệu, bổng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.

 

 1. Đức Maria: dịa chỉ của lòng tin.

 

 Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đâu càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành thoe kiểu vào hùa mà không cần biết đến  có tự do hay không.

 

Không phải thế, mà là kết quả suy tư dài lâu tìm kiếm của đời sống Giáo hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ các thánh 1.11.1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thíết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.

 

Thậy vậy, Mẹ vô nhiễm nguyên tội, nên không thể chịu hậu quả của tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời đồng trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu Kitô cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát xác thân. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô nhiễm nguyên tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.

 

Cách khác, Mẹ hồn xác lên trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.

 

 2. Đức Maria: dịa chỉ thiết thân của người tín hữu.

 

 Ngày xưa có thể có người nghĩ rằng: Đức Maria Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tin cách nay chưa lâu, mới hơn 50 năm, có chi mà quan trọng?

 

Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần túy quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều quy định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.

 

Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo hội lữ hành. Tất nhiên, trong Mầu nhiệm Giáo hội, Đức Kitô là đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của thân mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, người tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.

 

Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu chân thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho cuộc đời tín hữu.

 

 3. Đức Maria: dịa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời.

 

 Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu “Tin những gì Hội thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng coi chừng, tin tất cả mà không lo chuyển hóa niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.

 

Làm sao có thể về trời thanh thản khi cuộc sống này chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm và chưa thanh thản nổi đau đời? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc đời hôm nay vẫn còn bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái như là dục vọng, lòng tham hay quyền bính? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” của kinh Lạy Cha, mà còn mong có nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?

 

Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.

 

Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao xa và nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, gia tăng sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyện bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.

 

Giuse Vũ Duy Thống – GM. Phụ tá

Tổng Giáo phận Sài Gòn

Mục lục

 

GIẢI MÃ DA VINCI VÀ TÔI

 

 

Mình đang làm mục vụ tại một xứ nhà quê, giữa ranh giới của 3 tỉnh: Thành phố Cần Thơ, An Giang, Rạch Giá. Bởi vậy, nếu có ai hỏi xứ đạo của ông ở đâu, bằng giọng điệu hay tếu của mình, tôi đáp: Xứ tớ ở tầng đầu địa ngục.

 

Ơ sâu vậy, thế mà, Giải mã Vinci cũng mò tới, ghê thật!

Trong một cuộc uống cà phê sáng: Một ông trùm (là một giáo viên), đã hỏi mình: Cha nghĩ sao, về cuốn Giải mã Da Vinci ? Tôi chợt giật mình.

Thế là sáng Chúa nhật kế tiếp, mình phải mất 15 phút trước lễ, để “giải mã” cho cuốn sách này.

Trước khi nói, mình cũng suy nghĩ nhiều lắm. Nên hay không nên đưa ra?

- Cho người ta biết, điều không nên biết, có khi là một dại dột?

- Cho người ta biết, là một sự chuẩn bị cần thiết, với góp ý hướng dẫn của mình, có khi là có lợi?

Nghiêng về suy nghĩ sau, nên tôi đã quyết định nói.

Thực ra, với tôi, cuốn sách ấy cũng chẳng có gì là quá quan trọng.

Bởi nếu so với những cuốn sách đã từng xuất bản, để phản đối Giáo Hội, thì “Da Vinci” cũng chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ.

Nó cũng chỉ là một con sóng, làm con tàu Giáo Hội, phải một chút ngả nghiêng, và những người trên tàu phải chóng mặt.

 

 I. Chòng chành là định mệnh của Giáo Hội

 Đã có một lần, Chúa Giêsu xuống thuyền cùng các môn đệ. Ngài nằm ở chỗ lái mà ngủ. Cơn sóng thức dậy. Khiến con thuyền chao đảo nước ùa đầy vào thuyền, và sắp chìm.

Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên thuyền. Sóng nổi lên. Con thuyền  chòng chành. Con thuyền Giáo Hội đang bị chòng chành. Nó bị chòng chành chính lúc Chúa đang ở giữa thuyền (x. Mc 35,41). Phải chăng, định mệnh Giáo Hội là chòng chành. Bởi Chúa muốn thế. Để những người trên thuyền biết rõ về sự giới hạn của mình, và luôn phải bám chặt vào tay Chúa.

Chòng chành là điều tất nhiên thôi. Bởi hành trình của nó là cứ đi cho tới ngày tận thế. Hành trình dài quá!

Cứ nhìn theo vết bọt của con thuyền đi sẽ thấy. Có được mấy lúc, con tàu ở trong trạng thái bình an? Cứ đi là có sóng. Có sóng là chòng chành.

Vừa lúc bắt đầu ra khơi, con thuyền tưởng đã tan nát. Khi người lái thuyền bị chìm trong máu, với bản án tử hình (chết hắt hiu trên thập giá). Các môn đệ đã bơi mỗi người một ngả.

Thế nhưng, không! Con tàu Giáo Hội vẫn cứ đứng vững.

Rồi khi boi tới cảng Rôma, người nhạc trưởng trong nhóm ngư phủ Galilée, bị đóng đinh ngược cho đến chết. Mọi người trên tàu, bị vùi sâu, sâu hơn cả thuỷ cung, trong những hang hầm toại đạo.

Con tàu vỡ rồi có phải?

Không, nó vẫn cứ lênh đênh vượt đại dương. Ở hầu hết những miền đất, con tàu cập bến, lúc nào con tàu cũng bị truy đuổi, bị nhắm đánh, để đánh chìm con tàu.

Ơ Việt Nam, có hơn 100 ngàn người, đã bị giết chết, vì cư ngụ trong con tàu Giáo Hội.

Không những thế, trải dọc lịch sử của hành trình dài hơn 2000 năm, con tàu đã ra đi, người ta mới khám phá ra rằng:

Có nhiều lần, con tàu đã rơi vào những khúc quẹo khủng khiếp. Tưởng chừng 100% con tàu sẽ tiêu. Bởi ngay cả người thuyền trưởng, cũng bị say sóng, rơi vào những tiếng gọi liêu trai của những nàng tiên cá. Con tàu quay long lóc, nhưng cũng vẫn không chìm.

Có rất nhiều lần, uy tín của con tàu bị nhắm bắn kịch liệt. Nhất là vào thời Trung cổ, những cuốn sách, mà Giáo Hội liệt vào loại sách đỏ bị cấm, nối đuôi nhau xuất hiện. Cái bảng liệt kê, dài quá trời dài, đếm mãi không hết.

Những cuốn sách, với nhiều người nổi tiếng là tác giả, đã bôi đen cả trong lẫn ngoài con tàu, nhưng con tàu vẫn không chìm. Cứ tiếp tục tiến lên.

Và một điều rất ngỡ ngàng xảy đến trước mắt.

Tất cả những người đã bắn phá, bôi tro trát trấu ấy, với vô vàn những lời nguyền rủa, mà đọc lên thấy sượng sùng. Họ đã ra đi. Đã chìm sâu nơi đáy đại dương cuộc đời.

Còn con tàu, vẫn vững vàng và lại tiếp tục cuộc hành trình chưa kết thúc.

 

 II. Giải mã “cho giải mã”

 Tôi không ngạc nhiên lắm, khi “Giải mã Da vinci” xuất hiện.

Với tôi, đó là một vụ đặt bom khủng bố. Nó muốn làm nổ tung uy tín của Giáo Hội. Có một sự trùng hợp lạ lùng.

Về xã hội, thì từ sau 11/9/2001, thế giới bắt đầu rơi vào một tình trạng khủng bố dã man. Chỗ nào cũng có thể trở thành điểm nhắm để đặt bom.

Về Giáo Hội, cũng trong khoảng thời gian này, hình như cũng có một phong trào khủng bố được phát động nhắm vào Giáo Hội.

Bao nhiêu những vụ lạm dụng tình dục được đưa lên truyền hình, báo chí. Những vụ xì căng đan được bêu xấu khắp nơi.

Cũng là những vụ khủng bố nhắm làm tan nát uy tín Giáo Hội.

Rồi đến cuốn “Cơn cám dỗ cuối cùngcủa Chúa” (The last contemptation).

Người ta muốn đặt bom, vào chính trung tâm của toà nhà đức tin.

Bom nổ, có thể, có một số người bị trúng bom. Nhưng trung tâm vẫn còn nguyên đó.

Rồi bây giờ, là “Giải mã”.

Lần này, vụ khủng bố có khốc liệt. Bởi trái bom ấy, được bọc bằng những sự thật bẻ quẹo, những sự thật rải rác, nhặt ở a2y, thời đại khác, rồi ráp nối lại, khiến những người chứng kiến, bị lừa, tưởng đó là sự thật.

Sự khốc liệt còn được bồi thêm, bởi nó được bọc thêm bằng cốt truyện của một truyện tình báo, trinh thám. Khiến những người xem, bị lôi kéo đi, mà không thể ngờ.

Hơn thế nữa, nó còn đánh vào thị kiến tò mò của người xem, vì mê say, người xem có thể bị quên bẵng đi rằng, đó chỉ là một câu chuyện của tưởng tượng, của hư cấu.

Nhưng rồi, thế nào, như mọi vụ nổ bom khác, rồi cũng sẽ qua. Dan Brown rồi sẽ nằm xuống. Còn sự thật chân chính vẫn cứ tồn tại trong Giáo Hội, và vẫn đầy người đến để thờ bái Chúa Giêsu.

 

 III. Ý nghĩa của “Giải mã Da Vinci”

 Từ “những vụ lạm dụng” nổi lên ở Mỹ, đến “cơn cám dỗ cuối cùng”, và đặc biệt là “giải mã”. Ta đọc được cái ý muốn của thế hệ này. Như có lần Chúa Giêsu nói: Thế hệ này là thế hệ gian ác.

Thế hệ này, là một thế hệ đang muốn đề cao tình dục. Hay nói sát hơn, muốn tôn thờ tình dục.

Tôi không biết thực tế đời Dan Brown thế nào, nhưng dựa theo phương pháp phân tích của Freud, thì rõ ràng, Brown là một người đang bị tình dục cai trị.

Có lẽ, ước vọng tình dục của Brown lớn, nhưng những giá trị luân lý của Kitô giáo, mà Brown đã được học, cản trở ông ta, nên ông ta đã tìm một lối để thoát.

Ông muốn đem cả Chúa vào cuộc, trong sân chơi tình dục với ông, để giáo lý của Ngài, bị đổ và như thế, ông có thể lừa được mình, yên tâm mà bước vào những vũng lầy.

Phải chăng, luân lý Kitô giáo, luôn là một cản trở cho những ước mơ thấp hèn của ông.

Có ý kiến cho rằng: qua câu chuyện, Brown muốn đề cao phụ nữ, tôi không nghĩ thế. Người phụ nữ mà ông nhắc đến là Madalena. Cho dù Madalena đã được gắn cho cái danh dự cao cả, bà mang “hòn máu” của Chúa, thì cũng không có nghĩa là đề cao phụ nữ, mà thực ra, cũng chỉ là đề cao chuyện ăn chơi, tình dục, chứ không hề mang tính chất đề cao, giải phóng.

Dan Brown muốn rủ rê để con người đánh mất đi nhân phẩm của mình.

Thiên Chúa đã suy đồi.

Nền luân lý đã chết.

Nên mọi người hãy thoải mái bước vào vùng trời lạc thú.

Còn với Giáo Hội?

Nhìn phản ứng của Toà Thánh, và các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội, cũng như nhìn thái độ của mọi tín hữu trên thế giới.

Tôi thấy, tất cả đều đang đi đúng hướng, bởi qua thái độ và phản ứng, cả thế giới đều thấy rằng, Giáo Hội công giáo là một Giáo Hội của yêu thương. Tất cả đều đang thực thi lời dạy của Thầy chí thánh: “Các con hãy yêu thương cả kẻ thù của mình”. Hay “Lạy Cha, xin hãy tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”.

Giáo Hội bỏ qua, không trả thù, không ra lệnh kết án tử hình cho Dan Brown, hay nhóm người đứng ra dựng thành phim. Nhưng những người con trong Giáo Hội, cũng phải có thái độ. Đừng đọc, bởi những điều trong đó không đáng đọc, vì là những sự gian dối, bịa đặt, hoàn toàn không thật.

Người ta cũng có thể tẩy chay, bảo nhau tẩy chay, không đi xem phim khi được trình chiếu.

Một thái độ phản đối, bất bạo động, thiết nghĩ, cũng là điều cần làm.

 

 

Linh mục Đỗ Xuân Thiêm

 

Mục lục

 

 

LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

15-8-2006

 

 

ĐỨC MARIA – VẺ ĐẸP MUÔN THỦA

CỦA TÌNH YÊU CỨU ĐỘ

 

 “Nữ hoàng bên hữu Thánh Vương

Điểm trang lộng lẫy toàn vàng Ô-phia”

 (Tv 44)

 

 

 Suy niệm về mầu nhiệm và biến cố Đức Maria hồn xác lên trời, tín hữu chúng ta vui mừng hi vọng khôn tả, vì đây là bằng chứng chắc thực để xác tín hơn nữa về vẻ đẹp tình yêu cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô .

 

Quả vậy, Đức Maria, người đầu tiên trong nhân loại đã hưởng thành quả cứu rỗi do tình thương của Thiên Chúa trong Đức Kitô phục sinh. Đó là sự sống lại và lên trời trong thân xác vinh hiển. Công Đồng Vat.II đã khẳng định : “…Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết nguyên tội, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x.Kh 19,16 ), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết ”. (1) 

 

Nhưng trước khi được sống lại và hồn xác lên trời như Con của mình, Đức Maria đã tích cực cộng tác và tham gia trọn vẹn vào sự nghiệp của Đấng Cứu Thế. Ngài đã tự nguyện đón nhận kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa, đã dũng cảm đồng hành với Con mình trong hành trình hy tế cho đến hơi thở cuối cùng. Con người và cuộc đời của Đức Maria luôn luôn là một cuốn sách mở ra để tín hữu mọi nơi mọi thời chiêm ngưỡng, học hỏi và tạ ơn.

 

*****

 

Phúc âm không nói nhiều và cũng không mô tả kỹ lưỡng về con người và thân thế Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta lại được các thánh sử cung cấp những thông tin quan trọng cần thiết và những bằng chứng chắc thực về ơn gọi và sứ mệnh của một người phụ nữ hèn mọn, khiêm nhu, dũng cảm.

 

An tượng về Đức Maria thật tuyệt vời.

 

 ẤN TƯỢNG MARIA

 

. Người nữ tỳ bé nhỏ đón nhận điều vĩ đại

 

 Thiên Chúa đã chọn Đức Maria bé nhỏ để phục vụ chương trình kế hoạch kỳ diệu và vĩ đại của Người. Qua biến cố Truyền tin, chúng ta đã hiểu được rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37). Riêng với Đức Maria, dần dần bà cũng sẽ cảm nhận được điều này. Nhưng ban đầu, lúc được mạc khải về ý định của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chắc chắn Maria - trong thâm tâm - đã từng sửng sốt, kinh ngạc, hoang mang, e ngại, băn khoăn, lo lắng

 

Một trinh nữ bé nhỏ ở một làng quê cũng bé nhỏ đã đón nhận từ Thiên Chúa, qua trung gian của sứ thần đưa tin, một điều vô cùng vĩ đại. “Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự Sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế. Được cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Đức Maria đã lãnh nhận nhiệm vụ và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần…” (2)

 

Đức Maria đã khiêm tốn, vâng phục, tín thác mà ôm ấp điều vĩ đại ấy trong lòng và trong cả đời mình để tình thương và quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện trong nhân loại. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ).

 

 Ơn gọi và định mệnh của Đức Maria đã soi sáng cho ta hiểu rằng tình thương của Thiên Chúa chiến thắng tất cả và quyền năng của Người luôn vượt trên sự suy nghĩ, hiểu biết, tính toán và hoạch định của chúng ta. “…Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tôi ; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1, 48-49). 

 

 . Có một người Mẹ như thế đó ! 

           

 Tuy nhiên, khi chấp nhận thân phận làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria khó mà có thể tiên lượng điều gì sẽ xảy đến cho mình. Bà lo lắng, bối rối, nghi ngại…nhất là khi nghe ông già Si-mê-on nói tiên tri : “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người người It-ra-en phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng – còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà - , ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34-35).

 

Quả vậy, tâm hồn Đức Maria – như bị lưỡi gươm đâm thâu - đã thấm thía nỗi đau  của một người mẹ “đồng cam cộng khổ” với Con trong mầu nhiệm nhập thể, nhập thế và cứu chuộc. Suốt cuộc đời sống gắn bó với Con, trái tim của Maria, một người mẹ chân yếu tay mềm đã nhiều lần phải “rướm máu” vì trăm ngàn thử thách, khó khăn và đắng cay chua xót xảy đến bất ngờ và bất thường.

 

Có thể nói, Đức Maria đã bắt đầu cuộc thương khó ngay khi nói tiếng “Xin vâng ”. Với Ngài, thập giá là một cuộc hành trình long đong, lận đận. Từ tình cảnh giáng sinh lặng lẽ nghèo hèn của Đấng Kitô Đức Chúa (x.Lc 2,1-20) đến lời tiên báo đầy bí ẩn của ông già Si-mê-on (x.Lc 2,33-35). Từ biến cố bất ngờ lạc mất cậu bé Giêsu ở Giê-ru-sa-lem ba ngày (x.Lc 2,41-50)…và tiếp đến là cuộc sống ẩn dật lặng lẽ nhiều năm ở Na-da-rét. Rồi cả một chuỗi dài ngày, vất vả và rong ruổi theo chân Con khắp nơi khắp chốn…Dần dần Đức Maria đã linh cảm được rằng mỗi bước chân của Con và mỗi bước đi của chính mình không còn là cuộc hành trình vô định mà là một định hướng rõ nét về phía núi sọ Gôn-gô-tha.

 

Điều đáng ghi nhận là trong bất kỳ hoàn cảnh, tình huống nào, Đức Maria cũng biểu lộ sự vâng phục sâu thẳm của một nữ tỳ chấp nhận sống chết cho kế hoạch Tình yêu, sự dũng cảm tột cùng của một người mẹ liều thân vì sự nghiệp của Con, sự trung tín liên lỉ của một tín hữu luôn sẵn sàng để thánh ý Thiên Chúa thành sự. Đức Maria đã minh chứng sự dũng cảm của mình bằng sự hiện diện tích cực và sự đồng cảm sâu xa với Con, ngay cả khi phải bước vào cuộc hành trình Đức tin qua đau khổ và u tối.

 

Công Đồng Vat.II đã diễn giải như sau : “…Đức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng ở đó (x.Gio 19,25 ). Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy tế của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời này : ‘Thưa Bà, này là con Bà’ (x.Gio 19,26-27 )”. (3)           

 

 Sự dũng cảm chấp nhận đau khổ của Đức Maria đã giúp chúng ta xác tín hơn nữa rằng hy sinh , đau khổ luôn là đòi hỏi của tình yêu và sự sống. Và một tình yêu đích thực không bao giờ ngại hy sinh gian khổ. Tình yêu cũng là sức mạnh giúp vượt qua gian khổ để bước vào sự Sống. Tình yêu mạnh hơn  cả sự chết. Tình yêu dìu ta ngang qua đau khổ để tiến vào vinh quang…

 

Maria, hình tượng của người Mẹ anh hùng vẫn còn đó trong trái tim mỗi chúng ta !

 

*****

 

 Cuối cùng, ấn tượng mạnh mẽ nhất về Đức Maria, có lẽ, vẫn là cái vẻ đẹp kỳ diệu của một Tình yêu vĩ đại nhất. Tình yêu sáng tạo và hoàn tất công trình cứu độ.

 

Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã sẵn lòng hiến ban Con Một mình (x.1Gio 4,9). Người cũng đã yêu mến Đức Maria và đã chọn Ngài làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đáp lại, Maria đã hết lòng yêu mến Thiên Chúa và vâng phục kế hoạch của Người. Maria đã quảng đại và khiêm tốn hiến dâng tất cả cho Thiên Chúa và ban tặng tất cả cho nhân loại : bản thân, cuộc đời, tuổi thanh xuân, những dự phóng riêng tư, tâm hồn và trái tim một người mẹ...Đón nhận Tình yêu để rồi chia sẻ Tình yêu để phục vụ cho kế hoạch tình thương. Hơn ai hết, Đức Maria đã hiểu và sống trọn vẹn lời của Con mình : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gio 15,13).    

Đức Maria mãi mãi là vẻ đẹp muôn thủa và ánh sáng diệu kỳ của Tình yêu cứu độ.

 

 “Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội phải hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x.2P 3,10 ), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (4)

 

*****

 

 Aug. Trần Cao Khải

 

Mục lục

 

 

 

Ghi chú

1. Công Đồng Vat.II, LG 59 – Bản dịch Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đalat – Saigon 1975.

2  Công Đồng Vat.II, LG 53 – Sđd.

3 Công Đồng Vat.II, LG 58 – Sđd.

4 Công Đồng Vat.II, LG 68 – Sđd.

 

 

 

Ý NIỆM VỀ CON CÁI TRONG HÔN NHÂN

 

Quan niệm về hôn nhân và về con cái ngày nay đang có những thay đổi hết sức trầm trọng. Và điều này ảnh hưởng đến việc lưu truyền nòi giống, đến việc thực hành lời hôn ước là đón nhận những người con như hồng ân của Thiên Chúa và như hoa trái của yêu thương giữa hai vợ chồng.

 

Những khảo cứu về vai trò con cái đối với hạnh phúc hôn nhân gia đình đang có phần đúng theo với cái nhìn và quan niệm sống của nhiều cặp vợ chồng ngày nay. Quan niệm ấy là con cái chính là một trong những lý do đưa đến ly dị. Có nghĩa là, người ta kết hôn với nhau vì yêu nhau. Vì yêu nhau người ta kết hợp với nhau để sinh con cái. Nhưng vì con cái mà nhiều người lại bỏ nhau.

 

Trường họp 1: Bạn tôi chỉ có một người con trai duy nhất. Hai vợ chồng người con này đều là những người có địa vị, học thức, và dư thừa tài chánh. Nhưng điều anh chị mong mà vợ chồng ấy không có, đó là đứa cháu nội để “nối dõi tông đường”. Mong mãi mà vẫn chưa được bế cháu nội. Lý do là con dâu không muốn sinh con vì cho rằng có con lúc này sẽ ảnh hưởng đến nghề nghiệp, đến sắc đẹp. Mỗi lần nghe anh chị đề cập đến vấn đề con cái, cả hai đều trả lời: “Chờ vài năm nữa khi công việc ổn định, có thêm tài chánh lúc đó sinh con vẫn chưa muộn. Bây giờ công việc đang bận rộn, và chưa sẵn sàng”. Thất vọng, vợ anh đã có lần tâm sự với anh: “Chúng nó chỉ cắm đầu vào làm giầu, mua nhà cao cửa rộng, sắm xe hơi sang trọng. Nhưng để làm gì. Chờ cho đến lúc già mới nghĩ đến có con thì e rằng đã muộn. Đúng là có nhiều mà tốt, có một mà không nên thân. Tôi buồn quá!”

 

Trường hợp 2: Tại văn phòng tôi có một nhân viên rất dễ thương. Cô ta lập gia đình đã 3 năm, cô rất muốn có con nhưng chồng cô lại không muốn. Cô và chồng cô đã nhiều lần bàn tính với nhau về vấn đề này, đôi lúc đã đi đến gay gắt và khó chịu. Nhưng kết quả là cô ta vẫn không có con để bế, vì chồng cô không muốn. Một vài lần cô đã tâm sự rằng, tôi rất thích có con, nhưng chồng tôi lại không thích. Chồng tôi lý luận rằng có con chỉ làm cho nhà cửa ồn ào, mất thứ tự. Vợ chồng không có thời giờ cho nhau, và đôi khi làm cho tài chính và ngân quĩ gia đình thiếu hụt. Chồng cô còn cho rằng, bản thân anh sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ không bao giờ cười với nhau. Con cái không bao giờ ngừng tranh cãi, nhiều lần đã ẩu đả nhau. Những điều này làm cho anh chán nản và không bao giờ muốn nghĩ đến việc có con.

 

Trường hợp 3: Một cặp vợ chồng trẻ mà tôi quen biết cho đến nay vẫn chưa có con. Người vợ trẻ này cũng là một người rất thích có con. Ngược lại, chồng cô lại không thích. Lý do đơn giản là có con, con sẽ khóc đêm và như vậy sẽ làm anh mất ngủ. Tuy không thích con, nhưng anh lại rất thích games và xe hơi. Xe hơi để anh o bế, lau lọt, chùi rửa. Anh không bao giờ tỏ ra mệt mỏ trong việc o bế chiếc xe của anh. Có thể nói, còn hơn nhiều người o bế, và săn sóc con cái họ. Còn video games là trò giải trí mà anh không thể thiếu. Vợ anh đã có lần tâm sự: “Anh ấy ôm computer có khi còn kỹ hơn và nhiều hơn anh ôm em.” Và đó cũng là lý do vợ chồng anh đã đi đến chỗ ly dị.

 

1. Hôn nhân ngày nay:

 

Hôn nhân ngày nay đối với nhiều người không gì hơn là một khế ước song phương giữa hai người nam và nữ. Ý niệm về một khế ước dựa trên thực tế rõ ràng là bao lâu những điều được ghi nhận trong khế ước còn được tôn trọng, tôi và anh còn sống chung hòa bình, hạnh phúc. Nhưng khi những mối lợi hoặc những điều được ghi trong đó bị lợi dụng, bị tổn hại, thì bất bình, giằng co, và tranh cãi sẽ nổi lên. Nếu may mắn những điều này được giải quyết tốt đẹp, thì cuộc sống chung vẫn được duy trì, nhưng nếu những bất đồng ấy không được giải quyết, thì quyết định sau cùng sẽ là ly dị.

 

 3 trường hợp trên chỉ là tượng trưng cho những gì đang xẩy ra trong đời sống hôn nhân gia đình ngày nay. Vì hôn nhân được đặt trên một khế ước, nên để bảo vệ mình hoặc cả hai, phần lớn những cặp vợ chồng trẻ ngày nay đã không nghĩ đến việc có con, hoặc cùng lắm thì chỉ 1 hoặc 2 con. Điều này cho thấy tại sao vấn đề ngừa thai, phá thai, hoặc hôn nhân đồng tính tuy là những điều bị luân lý, đạo đức lên án, nhưng vẫn được đa số chấp nhận. Ngược lại những gì mà luân lý, đạo đức ca ngợi, khuyến khích lại bị nhiều người từ chối, chẳng hạn việc vợ chồng chung thủy, việc cha mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm sinh thành, nuôi nấng, và dưỡng dục con cái.

 

Gần đây, Đại Học New Jersey vừa phổ biến một tài liệu nói về thái độ đối với con cái của những cặp vợ chồng người Hoa Kỳ. Theo tài liệu này, thì con số những người bước vào đời sống hôn nhân mà không có con hoặc sinh con trễ đang mỗi ngày một nhiều.

 

Cũng theo tài liệu trên, thế hệ của chúng ta tức những người trên 50 tuổi, vấn đề con cái là một phần quan trọng trong đời sống hôn nhân gia đình, và việc có con sau khi lập gia đình là một việc hệ trọng. Ở vào thế hệ cha ông chúng ta, hễ lập gia đình sau một năm mà không có con là bị cho là có vấn đề. Ngược lại, những người trẻ thuộc thế hệ gần đây thì con cái trong hôn nhân không phải là một việc quan trọng, và do đó, những cặp vợ chồng lấy nhau mà không có con càng ngày càng đông. 

 

Theo Barbara Dafoe Whitehead và David Popenoe, thì vấn đề nuôi dưỡng và giáo dục con cái gần đây đang trở thành một đề tài tranh cãi. Đối với nhiều người, có con không phải là một vấn đề hấp dẫn và tạo hạnh phúc. Ngược lại, con cái chính là một ngãng trở hạnh phúc hôn nhân của nhiều cặp vợ chồng.

 

2. Ý niệm về con cái:

 

Vẫn theo thống kê trên, nhiều phụ nữ cho rằng họ chỉ sẵn sàng có con khi hoàn cảnh thuận lợi, và tương lai bảo đảm rằng việc có con là một cái gì đem lại hạnh phúc. Và nếu họ chờ đợi cơ hội thuận lợi lâu quá, thì phần lớn họ sẽ không nghĩ đến chuyện có con nữa. Theo những người chủ trương không con, thì có con cũng không phải là lý do giữ được vợ chồng khỏi ly dị. Vì thế, những ai đang có trong đầu mình tư tưởng ly dị, phần lớn đều cố tránh phải có con.

 

Theo tài liệu Văn Phòng Thống Kê mà hai tác giả trên dùng để nghiên cứu thì:

 

- Năm 1970, số tuổi trung bình của phụ nữ khi kết hôn là dưới 21. Ngày nay, tuổi trung bình cho một phụ nữ kết hôn là 26 tuổi. Đối với những phụ nữ có bằng cấp 4 năm đại học, số tuổi này dĩ nhiên cao hơn.

 

- Năm 1970, có 73.6% phụ nữ tuổi từ 25-29 đã có con và có ít nhất một con nhỏ đang sống với họ. Năm 2000, con số này giảm xuống còn 48.7%. Đối với nam giới cùng tuổi, năm 1970 có 57.3% sống với con. Năm 2000 giảm xuống chỉ còn 28.8%.

 

- Năm 1960, có 71% phụ nữ có con sau 3 năm đầu kết hôn. Đến 1990, con số này giảm xuống chỉ còn 37%. Điều này cho thấy, khuynh hướng không có con đang tăng vọt trong những cặp vợ chồng sau khi cưới nhau.

 

- Năm 1970, có 27.4% phụ nữ và 39.5% đàn ông lứa tuổi 50-54 có ít nhất một người con tuổi vị thành niên sống trong gia đình. Con số này đến năm 2000 chỉ còn 15.4% và 24.7%.

 

Phụ nữ không muốn có con ngày càng gia tăng. Năm 1976, có khoảng 1/10 phụ nữ không muốn có con, đến năm 2004, con số ấy là 1/5.

 

Thống kê cũng cho thấy, con số các gia đình có con cũng giảm dần từ ½ ở năm 1960, đến nay lên đến 1/3, một tỷ lệ được coi là thấp nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ.

 

3. Lý do bào chữa:

 

Một cách chung, trước đây thời gian có con sau khi lập gia đình thường là ngắn sau khi tốt nghiệp và sau thời gian lập gia đình. Một số ít sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ học thêm lên; nhưng phần đông sẽ kiếm một nghề rồi lo kết hôn và sinh con cái. Thời gian dành cho việc sinh sản, nuôi nấng, và giáo dục con thường kéo dài đến khoảng 50 hoặc 60 tuổi. Khi về hưu ở tuổi 65 là lúc người ta an hưởng đúng nghĩa. Nghỉ ngơi không bận rộn công việc và an vui với con, cháu. Hiện nay số người ở tuổi 50-60 mà có không cháu đang từ từ tăng dần, vì con họ không lập gia đình, mà nếu lập gia đình thì lại không muốn sinh con, hoặc có con quá trễ. Thí dụ, một thanh niên trên 30 tuổi mới lập gia đình, và chờ đến khoảng 35 hoặc hơn nữa mới có con, nên kết quả là ông bà ở tuổi 50 hoặc 60 vẫn không có cháu bế.  

 

1-  Cá nhân chủ nghĩa:

 

Nhưng với trào lưu mới ngày nay, thì thời gian dành cho riêng mình cả trước và sau kết hôn đã tăng vọt. Những cặp vợ chồng không con được coi là may mắn và hạnh phúc. Ngược lại, con cái đối với nhiều người và nhiều cặp vợ ngày nay được gói gọn trong câu nói: “Con là nợ. Vợ/chồng là oan gia”. Không những thế, người ta đã cố tình tránh né hoặc không muốn vâng nghe lời của Thiên Chúa: “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất và hãy làm chủ trái đất. Hãy thống trị cá biển, chim chóc trên bầu  trời và mọi loài di chuyển trên trái đất” (Sáng Thế Ký 1:28).  Một cách dễ hiểu, là người ta không muốn có con.

 

Truyền thống văn hóa Việt Nam vẫn coi trọng việc có con. Quan niệm này cho rằng nhiều con, nhiều cháu là giầu sang, phú quý: “Đa tử, đa tôn, đa phú quý.” Theo Khổng Học, không có con còn là một bất hiếu, là một hình phạt: “Cây khô không lộc, người độc không con”. Đó là lời châm biếm, mỉa mai của người Việt Nam dành cho những ai không con cái. Nhận xét này tuy chủ quan, nhưng không hẳn là không có ý nghĩa.

 

Đời sống không con, ngày nay bắt nguồn từ quan niệm như một đời sống dành cho chính mình. Một đời sống chú tâm vào cái tôi, và được coi là lối sống ích kỷ “cá nhân chủ nghĩa”. Tôi biết một người khá đầy đủ về vật chất và tài chánh, đã lập gia đình lâu năm và chủ trương không có con. Nhà bà gồm 4 phòng ngủ, 1 cho vợ chồng bà, 1 làm văn phòng cho chồng bà, 1 để dành tiếp đón khách và bạn hữu, và 1 dành cho 2 con chó và 1 con mèo. Nhiều lần tôi đã nghe bà than thở về sự mệt mã và tốn kém cho việc chăm sóc 2 con chó và 1 con mèo mà bà vẫn thường gọi là những đứa con cưng của bà. Theo bà, nào là tiền hớt lông, tóc, cắt móng chân, và xỉa răng hàng tháng. Rồi tiền mua thức ăn, tiền bảo hiểm, tiền bác sĩ mỗi khi chúng đau ốm. Đã có lần tôi nói với bà: “Sao bà không sinh mấy đứa con mà yêu thương, chăm sóc cho bõ công.” Nhưng dường như tiếng “con” làm bà hoảng sợ. Và mỗi lần như vậy, bà đều phản ứng một cách gay gắt: “Người ta có quyền có con, tôi có quyền không có con”.   

 

Ngoài ra, việc mang thai, sinh nở đối với nhiều phụ nữ ngày nay còn mang ý nghĩa tự quyết: thân xác tôi, tôi có quyền quyết định. Ngừa thai, phá thai theo quan niệm của những phụ nữ này cũng nằm trong quan niệm đó. 

 

Trước đây được làm cha mẹ là một vinh dự, hạnh phúc lớn lao. Nhiều phụ huynh không ngại hy sinh tất cả vì con cái. Vất vả, lo lắng và hy sinh bản thân mình miễn sao con cái an vui, hạnh phúc là mình thấy hạnh phúc. Nhưng quan niệm ấy ngày nay đang từ từ thay đổi. Hình ảnh những cha mẹ hy sinh cho con cái đang lu mờ, trước hình ảnh những đôi vợ chồng trẻ dành thời giờ tại các phòng trà, các câu lạc bộ, các cuộc du hý và du lịch. Đó là chưa kể đến hằng chục triệu thai nhi mỗi năm bị chính cha mẹ mình giết bỏ trước khi chúng được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, vì cha mẹ chúng không muốn mang trách nhiệm, và không muốn hy sinh.

 

2. Trốn tránh trách nhiệm giáo dục:

 

Việc giáo dục con cái ngày nay cũng là một ngãng trở và đã khiến nhiều cha mẹ không muốn có con hoặc không muốn có nhiều con. Những trẻ em ngày nay mang các hội chứng tâm lý chậm phát triển như Autism, Down Syndrome, hoặc ADHD tăng nhiều. Hằng trăm thứ cám dỗ, và hằng trăm những thử thách của tuổi dậy thì, cộng thêm những khắc nghiệt của đời sống, của công ăn việc làm của cha mẹ khiến nhiều người không nghĩ đến việc có con. Hình ảnh nhiều phụ huynh phải vác chiếu hầu tòa về mang tội “hành hung con cái”, trong khi chính con cái mới là kẻ “hành hung cha mẹ”vì những bướng bỉnh, mất dậy và vô lễ, coi thường công ơn cha mẹ là một trong những ám ảnh đối với nhiều phụ huynh.

 

Thật ra, vấn đề giáo dục không phải là một thách đố quá sức của bậc làm cha mẹ, và việc con cái hư hỏng cũng còn tùy ở chính tư cách, quan niệm và lối sống của cha mẹ nữa.

 

Một điều tương phản là cha mẹ thì cho rằng con cái khó dậy, hư hỏng vì không vâng lời mình. Ngược lại, những hồ sơ tâm bệnh, những hồ sơ của thiếu niên phạm pháp lại tố cáo sự chểnh mảng, vô trách nhiệm của những người làm cha mẹ. Câu nói: “Cha mẹ sinh con trời sinh tính” chỉ có nghĩa đối với những cha mẹ coi thường và lơ là trong vấn đề giáo dục con cái. Bầu khí gia đình cãi vã, cha mẹ đánh chửi nhau là một bầu khí làm cho con cái chán nản, bỏ nhà đi hoang. Đặc biệt là những cha mẹ làm gương xấu cho con cái bằng chính quan niệm, lối sống, và tư cách của mình.

 

Tuy nhiên, không ai chối cãi rằng vấn đề giáo dục con cái ngày nay đang gặp phải nhiều khó khăn do môi trường, hoàn cảnh, và những cám dỗ của thế giới văn minh, vật chất. 

 

Tóm lại, đời sống hôn nhân ngày nay đang bị chao đảo vì bị lôi cuốn vào những tư tưởng và lối sống phóng đãng, tự do và ích kỷ. Vì nền tảng hôn nhân bị lung lay, sụp đổ, nên hệ quả của đời sống này là gia đình cũng bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng rõ ràng nhất là con người ngày nay không muốn có trách nhiệm, nhưng chỉ muốn hưởng thụ. Không muốn vất vả vun trồng cho thế hệ tương lai, nhưng chỉ nhằm hưởng cái lợi trước mắt. Quan niệm và lối sống này hoàn toàn khác với những gì mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã huấn dụ trong bài giảng lễ bế mạc Ngày Họp Mặt Thế Giới Về Gia Đình lần thứ 5: “Bằng một tình yêu cha mẹ chúng ta đã vui mừng đón nhận chúng ta và đã đồng hành với chúng ta từ những bước đầu trong thế giới này, giống như dấu chỉ của bí tích và sự tiếp nối tình yêu ân sủng của Thiên Chúa, từ đó chúng ta vào đời”.

 

Cảm nghiệm được đón tiếp và yêu thương bởi cha mẹ, theo Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, “luôn là một nền tảng vững chắc cho việc phát triển và lớn lên vững vàng, giúp chúng ta trưởng thành trên con đường dẫn tới tình yêu, chân lý và vượt qua chính chúng ta để tiến vào sự thông hiệp với người khác và với Thiên Chúa”. Đó là những nét tích cực và cao cả của sứ mạng làm cha mẹ. Rất tiếc con người ngày nay không quan tâm nhiều đến những điều này, bù lại, họ sống và hưởng thụ một cách ích kỷ. 

Trần Mỹ Duyệt

Theo Sứ mệnh giáo dân

Mục lục

 

 

MÙA BÁO HIẾU

 

Theo kinh điển nhà Phật, một trong những đệ tử lớn của Phật Thích Ca là ông Đại Mục Kiền Liên, sau khi được quả Thính Văn, thành bậc thần thông hạng nhất, động lòng nhớ mẹ, dùng "thiên nhãn thông" tìm mẹ ở đâu, thì thấy bà Thanh Đề đang ở địa ngục, đói khát. Hết lòng thương xót, ông lập tức lấy bát cơm dâng cho mẹ ăn. Miếng cơm chưa vào miệng đã hoá thành than, ngài Mục Liên khóc lóc thảm thiết, trở về bạch Phật, xin độ cứu mẹ mình. Phật thuyết kinh Vu Lan dạy Mục Liên vào rằm tháng Bảy hàng năm ( âm lịch) dâng bát cúng dường chư tăng, nhờ sức oai thần của mười phương chúng tăng nguyện cầu mới giải thoát mẹ ra khỏi địa ngục. Từ đó có lễ Vu Lan, hội Vu Lan cho những người con báo hiếu.

Hằng năm, tại Việt Nam vào ngày rằm tháng bảy, nhiều lượt người từ khắp muôn nơi, thiện nam, tín nữ  đến lễ ở các Chùa, như ngày hội của việc báo hiếu. Theo tiếng chuông ngân vang đi vào lòng người, niềm tri ân cũng dâng lên, thúc giục lòng con, đến quỳ lạy trước Phật đài, đem hết lòng thành kính, cầu xin từ bi của Tam Bảo cứu độ cho cha mẹ được giải thoát. Qua những bông hoa cài áo, người khác có thể nhận ra được gia cảnh của mỗi người con : Bông Hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi còn buộc giải nơ tượng trưng cho cha, Cha còn: nơ xanh, cha mất : nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: Hoa Hồng nơ xanh. Mẹ còn cha mất: Hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất cha còn: hoa trắng nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình.

 

Nghĩa làm con, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống, cha mẹ mất cũng thắp đèn trời, ngày đêm khấn nguyện. Chữ hiếu sống cho trọn vẹn, cao đẹp dường bao.

 

 " Công dưỡng dục thâm ân dốc trả

nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

làm con hiếu hạnh vi tiên" (Kinh Vu Lan Bồn).

 

Mùa tháng bảy Vu Lan, phần lớn mọi người đều "ép mình" ăn chay trọn tháng, để gọi là báo hiếu ông bà cha mẹ. Những ngôi Chùa quen thuộc gần xa, là nơi hội tụ của mọi người "đốt hương đảnh lễ" cầu cho ông bà cha mẹ đã quá vãng, cũng như còn sống. Đạo làm con đối với cha mẹ là cả một đời. Nghĩa sinh thành đến bao giờ trả xong, tình mẹ là bao la, công cha là núi Thái. Đã bao đêm mẹ trăn trở " Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn". Những gì ngon ngọt mẹ dành, cha nhịn cho con, công ơn nuôi dưỡng, biết ngày nào quên.

 

Ơ phương Tây, tuy không có tục thờ tổ tiên, tuy chữ hiếu không nâng lên thành "đạo", nhưng không vì thế mà không có ngày dành riêng để nhớ đến công ơn sinh thành của cha mẹ. Bằng chứng là họ có ngày (Mother' s day) vào tuần thứ hai, tháng năm, và ngày dành cho cha (father' s day) là ngày chúa nhật tuần thứ ba trong tháng 6. Ngoài ra, tháng mười một là tháng dành riêng để cầu nguyện cho những người đã qua đời. Như vậy, có thể nói thời gian tháng mười một, là mùa Vu Lan báo hiếu đến muộn của người phương Tây.

 

Sách Huấn Ca nói nghiã vụ cuả con cái đối với cha mẹ, cách cô đọng mà rất tuyệt: “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ  kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha thì được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chuá sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân. Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà của con cái bền vững, lời nguyền rủa của mẹ làm cho trốc rễ bật nền. Chớ vênh vang khi cha con phải tủi nhục, vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh dự gì cho con. Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, phải bị Đức Chúa nguyền rủa. (Hc. 3, 1-16).

 

Ơ Việt Nam, chữ "Hiếu"  được nêu cao, nhắc nhở cái đạo làm con. Đó là căn bản của đạo đức gia đình, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhắc chữ "hiếu" có khi người ta thường nói tới " đức cù lao", "chín chữ cù lao" là do câu "cửu tự cù lao" có nghĩa là nhắc nhở đến chín điều cha mẹ nuôi nấng gánh chịu vì con: sinh, cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), xúc (cho bú), trưởng (nuôi cho lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (săn sóc dạy bảo), phúc (bảo vệ). Trong Kinh Thi có câu: "Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao" có nghĩa là: thương xót thay cha mẹ sinh ta khó nhọc. Trong bài thứ năm, dạy học trò ở cho phải đạo, sách Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi có viết: "Chữ rằng 'sinh ngã cù lao', bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì".   

 

Đã chẳng phải mẹ đã ru ta bằng những lời ca dao ngọt ngào sao? "Chim xa rừng còn thương nhớ cội. Người xa người tội lắm người ơi". Ta thấm đẫm từng lời ru của mẹ và ta lớn khôn, bay đi khắp phương trời. Đúng như lời nhà thơ Nguyễn Duy viết : "Ta đi trọn kiếp con người. Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru".

 

Ít có người con nào, đã không được từng ngồi trên vai cha, tay nắm tóc, chân nhún nhảy, miệng cười khanh khách. Sự hy sinh của cha thầm lặng mà sâu. Có ai ngờ đâu, bao nhiêu thứ cha phải hy sinh, dành lại cho con những điều tốt đẹp nhất, mà mãi sau này người con mới hiểu.

 

"Nhìn được cha là ánh sáng tưng bừng, hương ấm áp của mặt trời mọc. Nhìn được mẹ là trăng vàng dịu ngọt, hiền hoà thay cho trăm cánh thêm sinh".

 

Đạo hiếu đã thấm sâu vào lòng người Việt Nam. Sâu đến nỗi, việc hệ trọng nào trong gia đình cũng cần có cha có mẹ tham dự quyết định. Còn sống cũng như đã khuất, cha mẹ vẫn là người tham dự vào đời con một cách sâu xa nhất. Những khi buồn rầu hay cả những khi vui mừng, cha mẹ vẫn là những người chia sẻ với con nhiều nhất.

 

Báo hiếu đâu chỉ dừng lại ở những ngày "thắp đèn trời" kính nhớ, mà việc hiếu đạo còn dạy những người con báo hiếu ngay khi cha mẹ còn sống. Sách người xưa có dạy: "Hồn định thần tỉnh", ta dịch: "tối viếng sớm thăm", những ngày cha mẹ mắt mờ, tay kém, mắt con là mắt cha mẹ, tay con là bàn tay cha mẹ, đỡ nâng các ngài. Chăm sóc cha mẹ miếng ăn, cái uống, như những khi ta còn thơ bé, cha mẹ ta đã chăm chút cho ta thế nào thì ta cũng cố chăm chút cha mẹ như vậy, trong lúc tuổi chiều xế bóng.

 

Có một lúc trong tuổi già hiu quạnh, cha mẹ không còn đủ sức đi xa hơn bước chân của mình, không đủ sức đuổi con ruồi, con muỗi, bao nhiêu thứ cứ làm buồn lòng mẹ cha, sự hờ hững của dâu của rể, sự tẻ nhạt của con của cái, sự  lơ là của cháu của chắt. Cha mẹ chỉ mong được chết sớm, để khỏi phiền lòng con cái. Cái đức hy sinh của cha mẹ còn đi cho hết đời như vậy, những người con cần ở bên cạnh cha mẹ biết bao. Cũng có những người con, vì lý do tất bật chiều hôm lo kiếm miếng ăn, hay vì một lý do nào đó, đưa cha mẹ vào trong trại dưỡng lão, đối với người Việt, không coi đó là điều đúng với "Hiếu Đạo". Sự đời vẫn có tiếng chê: "Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày", hay "Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày". Thế mới biết báo hiếu đâu chỉ là món quà, đâu chỉ là những cánh thư thăm hỏi, và cũng không chỉ là những ngày thắp nhang kính nhớ. Báo hiếu đó là cả cuộc đời, cả một tấm lòng của người con với cha mẹ. Sống đạo làm con như vậy thật không dễ, không dễ bởi chính cha mẹ cũng cả đời hao mòn vì con cái.

 

Ngày lễ Vu Lan, ngoài việc báo hiếu cũng còn là ngày Tết của chư Tăng. Theo tinh thần giới luật của Phật, người xuất gia đã vào trong hàng Tăng Bảo, không hạn cuộc vào năm tháng của đời, không lấy ngày Tết của đời để tính thêm tuổi. Người xuất gia chỉ lấy ngày tháng kiết Hạ của mình, mà đánh giá mức tu hành của mình làm tuổi tác, thời gian kiết Hạ là từ rằm tháng Ba đến rằm tháng Bảy Am Lịch. Rằm tháng Bảy là ngày mãn Hạ, cũng là ngày Tết của chư Tăng, đánh dấu một đoạn đường tu học, mỗi vị Tăng già thêm một tuổi Hạ, gọi là Hạ Lạp. Tuổi Hạ Lạp càng cao càng được tôn kính, như vị Phật sống.

Người Việt quan niệm đời tu cũng thật đơn giản ngay ở trong gia đình: "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là đi tu".

 

Với Phật Giáo, cùng một quan niệm như thế trong việc tu tại gia : Quan hệ gia đình, nếu đạo tâm chưa vững, hành trì pháp môn chưa đắc lực, thì kết quả sự tu học của mình và người thân chưa có là bao. Kinh "Tạp A Hàm", Phật bảo các thầy Tỳ khưu, nếu người thọ trì bảy thứ thọ, người ấy sẽ được sinh lên cõi trời Đế Thích. Chính trời Đế Thích ngày xưa đã tu pháp này mà trong đó hiếu hạnh làm gốc. Ông thường hay cúng dường cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Dung mạo ôn hoà, lời nói nhu nhuyến, không nói lời ác, không nói hai lưỡi, thường hay nói lời chân thật. Đối với thế gian bỏn xẻn, ông tuy tại gia nhưng không bỏn xẻ, thường hay bố thí bình đẳng tất cả. Nên sau đó ông được sanh trên cõi trời.

 

Cái căn bản mọi sự ở đời  bắt nguồn ở gia đình người Việt là như vậy, bao nhiêu điều học cơ bản, phải học ngay ở trong gia đình: Học về Tình Thương, học về đức tin, học về đời sống cầu nguyện, học về cách xử thế, về thành công và thất bại.

 

Qua đó, theo cách nói của người Công Giáo, ta có thể noí: Có sống với nhau mới sống với Chúa, có thành thật với nhau mới sống thành thật với Chúa, có lắng nghe nhau mới có thể lắng nghe tiếng Chúa được...mà tất cả những điều ấy, đều bắt nguồn từ đời sống gia đình.

 

Tầm quan trọng của gia đình người Việt Nam đã được Hội đồng Giám Mục Việt Nam nói đến trong văn kiện ""Lineamenta" Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu: " Một Hội Thánh như một cộng đồng gia đình sẽ dễ hội nhập vào trong lòng xã hội Á Châu.  Các tín hữu Công Giáo sẽ đến với anh em đồng bào của mình không phải như những kẻ xa lạ đến để thuyết phục, chinh phục hay ban phát, mà trước hết là để gặp gỡ chia sẻ.  Chia sẻ là vừa cho vừa nhận.  Chính Đức Kitô cũng đã làm như vậy khi Người nhận từ nhân loại máu mủ thịt xương, cơm ăn áo mặc, lời nói và văn hóa, v.v...để rồi có thể chia sẻ cho nhân loại tình thương của Thiên Chúa nhờ tất cả những gì mà chính Người đã nhận được từ nhân loại.  Một giám mục chúng tôi đã phát biểu đề tài nầy như sau tại Công Đồng Vatican II: "Quan niệm Giáo Hội là gia đình của Thiên Chúa rất gần gũi với con người.  Cách trình bày mầu nhiệm Giáo Hội bằng những từ ngữ về gia đình rất quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người (...) Trình bày Giáo Hội như là gia đình của Thiên Chúa giúp các Kitô hữu trở về với Tin Mừng, trở về với cách giảng dạy đơn sơ của Đức Giêsu (Đức Giêsu dùng rất nhiều hình ảnh về gia đình), nhờ đó mà dễ hiểu và thấm nhuần Tin Mừng hơn" (Acta Sunodalia Vat. II Vol II, Pars II, P 42-45, Typus Polyglottis Vaticanis, 1972).  Chính Công Đồng Vatican II cũng đã nói về đề tài nầy trong nhiều văn kiện, như trong Hiến Chế về Giáo Hội Lumen Gentium, 6, 32, 52; Sắc lệnh về truyền giáo, 1; Sắc lệnh về linh mục, 6."

 

Viết qua những dòng tìm hiểu mạo muội này về ngày Vu Lan, để cùng hiểu thêm những gì đã và đang ăn sâu trong lòng người Việt Nam hôm nay, với ước mong khi trình bày về Tháng kính nhớ tổ tiên của người Công Giáo, chúng ta cũng hoà hợp với tinh thần của dân tộc khi triển khai ý nghĩa mùa báo hiếu.

 

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Mục lục

 

 

PHẢN BIỆN

Gần đây người ta đưa ra ý kiến nên giao cho Mặt trận Tổ quốc vai trò làm phản biện xã hội cho các cơ quan chính quyền. Phản biện xã hội, theo tôi hiểu, là đứng theo quan điểm của xã hội, của người  dân để lý luận, phân tích, bày tỏ những lý lẽ, những khía cạnh ngược lại với những dự định, quyết định hay hành động của một cơ quan nắm quyền mong chính quyền cân nhắc kỹ càng hơn, thậm chí xem xét lại quan điểm của mình. Anh định cắt một phần công viên giữa lòng thành phố cho một công ty nước ngoài xây một toà nhà năm chục tầng, tất nhiên anh đã có quan điểm, có lý lẽ riêng của anh, nhưng đã đủ chưa, đã toàn diện chưa?  Quan điểm đó phải chăng chỉ là quan điểm kinh tế, không muốn biết tới những quan điểm chính đáng khác như môi trường, nhu cầu giải trí của nhân dân, cảnh quan? Đó là chưa nói tới trường hợp nhà cầm quyền thông đồng móc ngoặc với nhà đầu tư, một hiện tượng còn phổ biến. Chúng ta đã thấy vô số những quyết định sai do các cấp chính quyền tự ý vội vàng đưa ra, không "được" phản biện hay không thèm nghe phản biện! Việc xây dựng một cơ cấu phản biện là nhằm tránh tính độc chiều, độc thoại, độc đoán, và cuối cùng là sự tùy tiện vốn là những cám dỗ rất lớn đối với những kẻ nắm quyền hành trong tay. Quyền hành càng lớn, cám dỗ độc đoán càng mạnh. Việc xây dựng  cơ cấu phản biện cũng cho thấy một ý thức và một đòi hỏi mới về dân chủ đang lớn dần trong xã hội.

Chấp nhận phản biện như một sinh hoạt bình thường hẳn là rất khó khăn cả đối với người cầm quyền lẫn người dân. Mặc cho các nhà tuyên truyền trước đây ( trước thời Đổi mới) cứ lặp đi lặp lại rằng chỉ trong xã hội ta mới có dân chủ thực sự--"dân chủ tập trung"--còn tư bản chỉ có "dân chủ hình thức", thì ngày nay hầu như mọi cán bộ, đảng viên cộng sản cũng nhất trí rằng con đường xã hội ta phải đi để tiến tới dân chủ thực sự còn rất dài và gay go. Người ta đã "dày công" đào tạo nên những con người không dám có ý kiến riêng và có suy tư phê phán, không dám có sáng kiến và lãnh trách nhiệm--những con người thụ động, rập khuôn, sợ đấu tranh, chỉ biết lặp lại và cúi đầu vâng theo chỉ đạo của "trên" đưa xuống, cho nên không dễ gì mà ngưới có chức có quyền ngày hôm nay lại sẵn sàng nghe những ý kiến khác thậm chí trái ngược của của kẻ dưới quyền, còn người bề dưới cũng không thể một sáng một chiều làm quen với tư duy và sinh hoạt phản biện được. Trước mắt, họ lại còn sợ bị trù dập và thực tế vẫn không ít người bị trù dập khi dám "có ý kiến" với cấp trên. Nói tóm lại cả chính quyền lẫn nhân dân còn phải học tập nhiều để tư duy và hành động trong tinh thần tự do dân chủ căn cứ trên luật pháp.

Tôi đang nói tới xã hội nhưng tôi cũng đã nghĩ tới Giáo Hội. Giáo Hội là một thực tại vừa hữu hình vừa vô hình. Là thực tại vô hình, Giáo Hội là một mầu nhiệm phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng đồng thời là thực tại hữu hình giữa trần gian, Giáo Hội cũng là một xã hội có cơ cấu tổ chức và bao gồm những con người cụ thể như mọi người, do đó Giáo Hội cũng mang bộ mặt nhân loại như các xã hội bình thường. Công đồng Vaticanô II, tuy rất "hiện đại", vẫn không hề đề cập tới "dân chủ" trong Giáo Hội, nhưng  những gì công đồng nói về mối quan hệ giữa các thành phần dân Chúa, đặc biệt giữa chủ chăn và giáo dân, cũng như về quyền lợi và bổn phận của các thành phần trong Giáo Hội, trong thực chất còn nhắm xa hơn các thứ dân chủ trong xã hội và chính trị. Theo tinh thần công đồng, tôi thiết tưởng các vị chủ chăn không có gì phải ngại ngùng khi giả sử có nghe ai nói tới quyền phản biện trong Giáo Hội. Thực ra Vaticanô II cũng đã gián tiếp bàn tới và tiên liệu những cơ cấu thực hiện quyền này. Xin trích dẫn hai bản văn quan trọng:

Hiến chế tín lý về Giáo Hội: "Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, giáo dân cũng sẽ trình bày với các chủ chăn những nhu cầu và khát vọng của mình cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khảnăng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan tới lợi ích của Giáo Hội. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ vào các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy; và họ hãy luôn chân thành, can đảm và khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài (…). Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tín cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa các ngài nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và nguyện vọng của họ. Đàng khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế" (số 37).

Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục: "Các linh mục phải thành thật nhìn nhận và khích lệ phẩm giá và vai trò riêng của giáo dân trong sứ mệnh của Giáo Hội. Các ngài cũng phải thành thật kính trọng sự tự do chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ, có thể nhận biết những dấu chỉ của thời đại" (số 9).

Đọc những đoạn văn mạnh mẽ trên đây và một vài văn kiện khác của công đồng, tôi có mấy nhận xét như sau:

Trước hết, tôi không thấy nói tới dân chủ nhưng nhấn mạnh đặc biệt tới tự do và phẩm giá của giáo dân. Tự do và phẩm giá còn quan trọng hơn, sâu xa hơn dân chủ nhiều. Tiếp đến tôi thấy công đồng nhìn Giáo Hội không như một tổ chức pháp lý nhưng như một gia đình--gia đình của các con cái Thiên Chúa--trong đó các mối tương quan giữa chủ chăn và giáo dân vừa là tương quan anh em vừa là tương quan cha con. Ngoài những qui định "lạnh lùng" của luật lệ, còn có những đòi hỏi "ấm áp" và sâu xa hơn của tình nghĩa gia đình để mọi người ra sức góp phần xây dựng ích chung tùy theo vị trí và khả năng riêng, trong sự tôn trọng và yêu mến nhau. Tôi cũng nhận thấy rằng công đồng không những nhắc nhở các vị chủ chăn hãy để cho người giáo dân góp ý kiến và hơn nữa hãy thật lòng và sẵn sàng lắng nghe họ, mà còn nên khuyến khích họ tự đảm nhận lấy trách nhiệm đó. Thực tế, trong cộng đoàn giáo xứ cũng như trong cộng đoàn tu sĩ, người ta thường thích những thành viên ngoan ngoãn dễ bảo hơn những người có cá tính mạnh và hay thắc mắc, hay góp ý, coi đó như biểu hiệu của tính cứng đầu, ít tinh thần vâng phục, nhẹ nhất cũng là "lắm chuyện". Nhưng người lãnh đạo giỏi thì biết cách và tạo điều kiện cho mọi thành viên có thể nói lên ý kiến của mình và đưa ra những sáng kiến liên quan tới đời sống và công việc chung.

Xây dựng được cách thức tương quan trong cộng đoàn Giáo Hội như Vaticanô II mong muốn, thật là khó khăn, nhất là đối với Giáo Hội Việt Nam ta. Khó khăn đối với cả chủ chăn lẫn đoàn chiên. Đã có những bước tiến kể từ công đồng, nhưng chưa đồng bộ, thậm chí nhiều nơi dường như còn biết quá ít, thậm chí không biết hay không muốn biết đến những lời dạy của Vaticanô II và bộ giáo luật mới. Chúng ta vẫn còn phải nổ lực nhiều. Trong thực tế Việt Nam, thiển nghĩ phần nổ lực chính sẽ không phải là từ người giáo dân, nhưng từ chính hàng lãnh đạo. Các vị phải mở đường, phải đi bước trước, phải khuyến khích và tạo điều kiện. Và có lẽ phải giáo dục giáo dân bằng một phong trào học tập công đồng rộng khắp để họ biết rõ và ý thức hơn về "phẩm giá", quyền lợi và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội. Biết rõ hơn giáo lý công đồng liên quan tới mình, có thể rất nhiều giáo dân sẽ cảm thấy được "giác ngộ".

 

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

Text Box: SỐNG CHỨNG NHÂN 
 

 


 

TRUNG THÀNH VỚI CHỨC VỤ GIÁM MỤC

Ngày 30-8-257, Đức Cha Cypriano, Giám Mục thành Carthage, Bắc Phi, bị điệu ra trước tòa án của quan Paternus, quyền lãnh sự đế quốc La-Mã. Quan nói với Đức Cha:

- Tôi vừa nhận lệnh hoàng đế cho biết: tất cả ai không theo tôn giáo La-Mã đều phải tham dự buổi lễ dâng hương tế hoàng đế. Vậy thì sau lần phỏng vấn sơ khởi về lý lịch của ông, giờ đây ông trả lời thế nào với tôi về sắc lệnh hoàng đế?

Đức Cha Cypriano nói:

- Tôi là tín hữu Kitô và là Giám Mục. Tôi không biết thần thánh nào khác, ngoài THIÊN CHÚA Duy Nhất và Chân Thật, Đấng dựng nên trời đất, biển cả, sông ngòi cùng muôn vật. Chính Ngài là Đấng mà chúng tôi, các tín hữu Kitô, phụng thờ tôn kính. Chính với Ngài, chúng tôi ngày đêm liên lĩ cầu cho chúng tôi, cho tất cả mọi người, và cho cả phần rỗi của các quan và hoàng đế nữa.

Quan hỏi:

- Ông có kiên trì trong quyết định không?

Đức Cha trả lời:

- Một quyết định tốt đẹp như thế, được chính THIÊN CHÚA chấp thuận thì không thể thay đổi.

Quan hỏi:

- Ông có tuân lệnh hoàng đế đi đày ở Curubis không?

Đức Cha đáp:

- Tôi sẽ đi.

Quan lại nói:

- Tuy nhiên, ngoài vấn đề liên hệ đến các Giám Mục, hoàng đế còn nhắc đến các Linh Mục. Ông có thể cho tôi biết danh tánh các Linh Mục đang trú ngụ tại thành Carthage này không?

Đức Cha Cypriano trả lời:

- Theo luật La-Mã của quý ông, không được làm tên cáo-giác, chó săn. Luật thật đúng và hữu ích. Do đó, tôi không thể tố giác các Linh Mục và làm cho họ bị kết án được. Nếu quan muốn, cứ tìm họ trong các thành phố của họ.

Quan đáp:

- Tôi sẽ ra lệnh tìm bắt họ ngay ngày hôm nay!

Đức Cha Cypriano nói:

- Luật chúng tôi ngăn cấm tự nộp mình trước tòa án. Ngay cả khi biết rõ quan sẽ nổi giận và trừng phạt, các Linh Mục cũng không thể tự trình diện. Chính quan phải tìm kiếm họ.

Quan nói:

- Tôi sẽ tìm ra họ. Họ cũng bị cấm không được tổ chức các buổi họp phụng tự và đi vào các nghĩa trang. Nếu ai không tuân các lệnh trên sẽ bị chém đầu.

Đức Cha đáp:

- Quan cứ thi hành lệnh quan đã nhận.

Quan lãnh sự Paternus ký giấy phát lưu Đức Giám Mục Cypriano. Ngài ở xứ đày trong vòng một năm. Rồi Paternus qua đời và Maximus lên thay. Ông này ra lệnh cho Đức Cha Cypriano trở về trình diện.

Ngày 14-9-258, Maximus cho điệu Đức Cha Cypriano ra công đường, có đông người đang ngồi chờ sẵn. Quan hỏi:

- Có phải ông là Thascius Cypriano không?

Đức Cha đáp:

- Chính tôi.

Quan nói:

- Hoàng đế ra lệnh cho ông phải dâng hương tế thần.

Đức Cha trả lời:

- Tôi sẽ không bao giờ làm.

Quan nói:

- Hãy suy nghĩ cho thật kỹ.

Đức Cha Cypriano trả lời:

- Xin quan cứ thi hành lệnh đã nhận. Phần tôi, trong một vấn đề rõ ràng như thế, không cần phải dành nhiều giờ để suy nghĩ!

Maximus liền lớn tiếng đọc bản án:

- Ông sống lâu năm trong tôn giáo này và kéo theo người khác cùng chống đối các thần linh của người La-Mã và tôn giáo của họ. Do đó ông bị bắt với tư cách là trưởng nhóm phản loạn và để làm bài học cho người theo ông. Ông sẽ trả bằng giá máu cho cuộc sống của ông.

Đức Cha Cypriano liền đáp:

- Xin cảm tạ THIÊN CHÚA.

Sau khi nghe bản án, nhiều tín hữu Kitô có mặt trong đám đông la lớn tiếng:

- Chúng tôi cũng vậy, xin hãy chém đầu chúng tôi với vị Giám Mục của chúng tôi!

Và đám đông ồn ào hỗn loạn. Trong khi đó Maximus truyền cho lính điệu Đức Cha Cypriano đi xử. Đến nơi, Đức Cha cởi áo choàng và quỳ gối, phục mình thật sâu xuống đất, để cầu nguyện. Sau đó Đức Cha cởi thêm chiếc áo Giám Mục và đưa cho thầy phó tế, rồi đứng im lặng đợi lý hình thi hành bổn phận. Khi lý hình đến, Đức Cha truyền trao cho anh ta 25 đồng tiền vàng, rồi tự tay lấy khăn bịt mắt lại.

Đó là cuộc làm chứng cho Kitô Giáo, cho nhiệm vụ chủ chăn của Đức Cha Thascius Cypriano, Giám Mục Công Giáo thành Carthage, Bắc Phi. Hôm ấy là ngày 14-9-258.

(”SAINTS ANCIENS D'AFRIQUE DU NORD”, Mgr. Victor Saxer, TPV 1979, trang 82-87).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

Text Box: TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

 

CHUYỆN SAU NGÀY CƯỚI

 

Chuyện xãy ra vào buổi tối, trong một gia đình. Đứa con hỏi ông bố:

- Bố ơi! Tỷ lệ nghịch là gì vậy bố?

Ông bố nghĩ trong đầu. Một người cha chân chính phải biết chinh phục trái tim con trẻ bằng trí tuệ của mình, vì ngoài cái đó họ chẳng còn gì cả.! Nhưng khốn nỗi gánh nặng tuổi tác … Trí nhớ của mình dạo này rất tệ!

Chẳng hạn hôm qua, vừa lĩnh lương xong mình cùng các chiến hữu lâm trận hết một phần ba. Quên bén đi mình còn… một vợ ba con! Cái cụ thể hằng ngày như thế mà chẳng nhớ, huống hồ những khái niệm trừu tượng kia.

            - Con hỏi cái chuyện vớ vẩn đó để làm gì? Học thuộc bài chưa?

            - Thuộc rồi bố ạ! Chuyện này đâu phải vớ vẩn. Mai con học tới rồi, cô giáo bảo về soạn bài trước. Bố ơi!... Tỷ lệ nghịch là gì vậy bố?

            - Thế này nhé … Đại khái như vầy, một cái tăng lên làm cái khác giảm đi. Hai có đó nó tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu chưa? Chưa hiểu à! Bây giờ bố ví dụ nhé. Khi hai người nói chuyện với nhau, người này nói càng nhiều ắt người kia nói…

            - Càng ít!... Như bố và mẹ vậy, phải không?

            - Bây giờ con hiểu rồi chứ?

            - Thử cho một ví dụ xem nào!

            - Bố càng vui thì mẹ càng buồn và ngược lại..

            - Sao con lại nói thế! Bố mẹ luôn… đồng cảm với nhau mà.

            - Không đâu! Như hôm qua bố đi nhậu mặt mày tươi rói, mẹ lại nhăn nhăn nhó nhó! Còn bữa hôm trước mẹ đi siêu thị hớn ha hớn hở khoe bộ đồ mới, còn bố cứ tắc lưỡi hít hà hoài…

            - Cái đó chỉ nhất thời thôi. Bây giò con mở rộng ra ngoài xã hội đi. Thế này nhé! Lương của bố chỉ bấy nhiêu, nếu xăng tăng giá thì cái gì sẽ giảm bớt đi?

            - Bố phải giảm hút thuốc…

            - Nếu vẩn chưa đủ thì sao?

            - Mẹ phải giảm… xia kem

Anh chị thân mến!

Đó là một câu chuyện trong một gia đình thời nay. Thế còn ngoài xã hội thì sao? Xin phác hoạ ngăn gọn đôi nét về thời hiện đại để anh chị tham khảo.

            Tại Sài gòn hiện nay, ước tính có 10.000 quán nhậu; trong lúc chỉ có chưa dầy 900 trường học 34 trung tâm văn hoá. Hàng loạt rạp chiếu bóng bị biến thành nơi ăn nhậu; một số cơ sở văn hoá, thư viện, trường học v.v. được thuê một phần để làm quán bia … Mỗi ngày toàn thành phố có hơn 30 tỷ đồng chi cho việc ăn nhậu, nhiều hơn số tiền Chính phủ bỏ tiền ra để bù cho giá xăng dầu cả nước. TP Sài Gòn nhậu một ngày bằng cả một tỉnh nghèo quần quật dãi nắng dầm mưa trong … ba tháng!

            Cục trưởng Hải quan của một tỉnh miền Đông từng gục đầu nhục nhã khi bị bắt quả tang khi đang “quậy” trong một quán bia ôm ở Vũng Tàu, một giám đốc sở ở TH Sài gòn thân bại danh liệt vì thú săn “hàng độc” về nhậu. Trong vụ án Năm Cam, hàng loạt cán bộ cấp cao đã phải ra toà sau khi bị đám giang hồ “nắm thóp” qua cuộc đắm chìm trong tửu, sắc. Ở một tỉnh miền Tây từng có vụ cả dàn cán bộ một xã nghèo bị kỷ luật vì “tiếp khách” quá trớn nợ hơn 140 triệu đồng.v.v …

            Còn chuyện “An toàn thực phẩm”đùng là chuyện dài nhiều tập, nào là bánh phở có chất hooc môn, nào là nước mắm Chinsu có chất gây ung thư quá nồng độ cho phép, nào là phẩm màu trong thức ăn. Thôi thì “Hồn ai nấy giữ” , trông chờ vào ông nhà nước “An toàn thực phẩm” thì có ngày ra nghĩa địa mà kiện con giun.

            Sống trong xã hội như thế, anh chị đã có kế hoạch nào để ứng phó chưa? Sau ngày thành hôn về chung sống với nhau, chắc chắn anh chị có một kế hoạch công việc làm ăn, về cách bảo vệ và nuôi dưỡng tìng yêu, để hai người có thể sống chung hoà hợp và hạnh phúc, và vui vầy bên con cái vì thế xin tăng anh chị “3 Lời khuyên” như một món quà cưới đơn thành.

 

1.Tiết kiệm chăm làm

            Anh hãy bớt ăn nhậu, tiệc tùng. Chớ đem tiền nướng cho sòng bài, rồi nợ như chúa Chổm. Sớm muộn gì cũng ra đứng đường.

“ Đêm năm nghĩ lại mà coi

Lấy chồng bài bạc như voi phá nhà”

Đam mê hút sách cần phải xét lại, vì một khi đã nghiện rồi thì không dễ từ bỏ:

“Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”

Đam mê rượu chè phải tránh ngay từ đầu, kẻo khó mà thoát khỏi cái vòng cương toả của nó, bởi vì “Trong tửu có sắc”

“Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa,

Hay ưa nên nỗi không chừa được,

Chừa được nhưng mà vẩn chẳng chừa”

Trong phiên toà xử ly hôn tại Toà án Nhân dân thành phố gần đây, một cặp vợ chồng đã đệ đơn ly hôn do chồng quá vô tâm. Theo lời người vợ họ lấy nhau được 13 năm, có hai con. Thế nhưng người chồng lúc nào cũng như chàng “Độc thân vui tính”. Vợ chuyển dạ, anh đi nhậu nên con ra đời lúc nào cũng không hay. Sau đó anh cũng bày tỏ thái độ ăn năn, xin nghĩ vài ngày chăm sóc vợ trong bệnh viện. Nhưng ngồi mãi cũng buồn, anh cũng ra căn tin uống cà phê cho tỉnh ngủ, và đi luôn tới chiều!

Thấy anh trở lại, mặt mũi đỏ gay, chị gặng hỏi thì anh thú nhận: “Thấy cà phê trong căn tin dở, anh bèn ra ngoài. Ai ngờ gặp ông bạn thân, vậy là mãi mê nói chuyện vợ con rồi chén chú chén anh mừng vợ mới sinh, quên cả thời gian”

Thậm chí có lần anh được giao nhiệm vụ đi họp phụ huynh cho con, song anh đã vào nhầm lớp. Con học lớp 8A, anh vẫn tưởng con học lớp 7A. Ngồi hết buổi họp mới biết mình nhầm.

            Còn người vợ, cũng phải biết chịu thương chịu khó. Có câu nói rằng: “Một vợ làm biến như giữ xác chết trong nhà” Do đó, vợ chồng phải đặt kế hoạch làm ăn để nuôi sống gia đình và sau đó giúp kẻ nghèo khó. Truyền thống văn hoá Việt Nam thường quý trọng những người phụ nữ ngoan hiền, đảm đang.

“Làm trai lấy được vợ hiền

Như cầm đồng tiền mua được của ngon

Phận gái lấy được chồng khôn

Xem bằng cá vượt vũ môn háo rồng”

            Cuộc sống vật chất khó khăn, tiền bạc thiếu trước hụt sau… là nguyên nhân tan vỡ của không ít gia đình, có thể khiến cho một tình yêu rất đẹp đẽ, mãnh liệt cũng gây đổ. Mối lo cơm áo, gạo tiền khiến con người ta dễ bực bội, nổi cáu, dễ xích mích gây gổ, nói chi đến  chuyện quan tâm, chăm sóc nhau. Cha ông ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”

            Tuy nhiên, cần đánh giá tiền bạc cho đúng. Nó là phương tiện, chứ không phải cùng đích, là tên đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu. Đừng để xãy ra cảnh:

“Có tiền, thì vợ vợ chồng chồng

Hết tiền, hết gạo thì chồng Đông vợ Đoài”

           

 

Quan niệm, “Một túp lều tranh hai trái tim vàng” chỉ là một ý tưởng viển vông, chỉ có thể an ủi những tâm hồn mơ mộng, thiếu thực tế.

2. Nhẫn nhịn và hy sinh

“Bá nhân, bá tánh”. Vợ chồng cũng thế mỗi người một tính, không ai giống ai. Cho nên, nhẫn nhịn dung hoà là rất cần thiết, như lời tiền nhân đã dạy:

“Vợ chồng là nghĩa già đời

Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn”

Sống chung là một cuộc chiến đấu liên lỉ. “Chén bát còn có lúc xô xác, huống chi vợ chồng” Sống với nhau lâu ngày , tránh sao những lúc “Cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”.

“Ngọc tìm lâu sẽ thấy vết

Hoa để gần sẽ hết mùi hương”

Trong hôn lễ, anh chị trao nhẫn cho nhau, là để chỉ sự trung thành, mà cũng là nhắc anh chị phải sống nhẫn nhịn. Người chồng đeo chiếc nhẫn lớn, ví như mặt trời cho đi mà không cần đền đáp. Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, nó vẩn cứ giãi nắng, vẫn cứ đổ mưa. Còn người vợ đeo chiếc nhẫn nhỏ, ví như mặt trăng hiền dịu tươi mắt, làm khô đi những giọt mồ hôi.

Vì thế, chỉ có tình yêu mới có thể nhẫn nhịn và hy sinh cho nhau. “Thương nhau chín bỏ làm mười”

Lúc mới cưới về thì: “Anh nói em nghe, em nói anh nghe.” Vài tháng sau: “Anh nói anh nghe, em nói em nghe.” Sau cùng cả hai vợ chồng la làng và hàng xóm phải nghe. Lúc đó hãy nhớ lời dạy của cha ông: “Một sự nhịn chín sự lành”

Đã là vợ chồng thì không nên “Đối đầu” mà hãy “Đối thoại” với nhau, để tìm ra tiếng nói chung, và để có sự hiệp nhất yêu thương. Trong cuộc sống lứa đôi, hãy áp dụng phương châm này: “Chuyện to hoá thành chuyện bé, chuyện bé hoá thành không” thì hạnh phúc mới lâu bền được.

Xuân Diệu có viết: “Dù tin tưởng chung một đời một mộng. Em là em, anh vẫn cứ là anh” Do đó, hôn nhân là một lựa chọn hy sinh. Không mấy đòi hỏi hy sinh mạng sống, nhưng “Yêu là chết trong lòng một ít”, mỗi bên phải trừ bớt tự do cá nhân, khoan nhượng liên lỷ, cho đời sống chung được triển nở:

“Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi bớt lửa đời nào mà khê”

Muốn nhẫn nhịn được, phải có sự hy sinh từ bỏ. Công việc nhà cũng thế. Thật không buồn tủi cho người vợ cả ngày đi làm, tối về bù đầu lo cơm nước, tay bồng tay ẵm, trong khi chồng nằm khểnh ra ghế xem ti-vi, đọc báo hoặc ra quán lai rai với các chiến hữu. Người chồng nên hạn chế giao tiếp bạn bè để lo cho vợ con, thì gia đình sẽ êm ấm hạnh phúc

“Lấy chồng cho đáng tấm chồng

Bỏ công trang điểm má hồng răng đen”

Lập gia đình, không phải lo cho mình được hạnh phúc, mà là mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Chính sự hy sinh quên mình, làm cho tình yêu thêm cao quý và sâu sắc hơn.

Câu chuyện “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” kể rằng: Nước Úc có một loài chim bé nhỏ. Để có đước tiếng hót thánh thót dâng hiến cho đời, nó phải bay vút lên cao, rồi đâm nhào vào bụi mận gai; khi những chiếc gai nhọn đâm thủng lồng ngực con chim sẽ kêu lên, âm thanh thoát ra nghe rất tuyệt vời.

 

3. Gìn vàng giữ ngọc

Khi chưa chồng trang điểm trau chuốt, đến khi có chồng có con thì lôi thôi lếch thếch.

“Chưa chồng nón thúng quai thao,

Chồng rồi nón rách, quai nào thì quai,

Ba con ngổn nghểnh răng vàng,

Bốn con quần áo đi ngang khét mùi”

Cách ăn nết ở cũng thay đổi, như nóng nảy, nói nhiều tự ái… Trái lại, nếu người vợ biết trau dồi Công Dung Nôn Hạnh thì chồng nào mà chẳng say mê.

“Rượu say vì bởi men nồng

Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo”

Sự hấp dẫn là điều không thể thiếu đối với phái đẹp, nó có một sức mạnh vô cùng. Muốn nét quyến rũ ở mãi bên mình, chị hãy khéo léo kết hợp yếu tố thể xác lẫn tâm hồn, để luôn: “Đẹp mãi trong mắt chàng”

 

Anh chị thân mến!

Ca dao có câu:

“Tậu trâu lấy vợ làm nhà,

Trong ba việc ấy thật là khó khăn”

Chính vì khó khăn nên cần phải vun đắp cho tình yêu cua anh chị được bền vững. Nếu giữ được 3 lời khuyên trên, chắc chắn anh chị sẽ hái được trái ngọt của hạnh phúc, và hoa thơm của tình yêu.

Ước mong sao lời Kinh Thánh sau đây được thực hiện nơi gia đình anh chị: “Vợ đẩm đang khiến chồng sung sướng, được an vui suốt cả cuộc đời” (Hc 26,20) . Chú anh chị luôn biết tiết kiệm và chăm làm, nhẫn nhịn và hy sinh, nhất là biết ginf vàng giữ ngọc, để anh chị được mãi mãi vui hưởng hạnh phúc trong đời sống gia đình.

 

Thiên Phúc

Mục lục

 

 

Text Box: ĐỌC SÁCH 
 


 

KHI NÀO NGÀY BẮT ĐẦU ?

 

 

Lúc nào đêm bắt đầu? Khi nào ngày chấm dứt?

 Vị đạo sĩ hỏi người học trò:

 - Đâu là lằn mức giữa đêm và ngày? Lúc nào ngày bắt đầu? Lúc nào đêm chấm dứt?

 Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới lúc nào là hết đêm.

 Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: “Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?”

 Khi viết dòng này, tôi cũng mới chợt tỉnh câu hỏi của nhà đạo sĩ. Mấy mươi năm làm người, chưa bao giờ nhìn buổi sáng hỏi chân trời lúc nào gọi là ngày, hỏi lòng mình lúc mặt trời mọc đến đâu là hết đêm. Câu hỏi không dễ trả lời.

 *

 Tôi đang ở Kanniyakumari, cực nam của miền đất Ấn Độ, cũng gọi là Cape Comorin. Nơi gặp nhau của ba dòng nước lớn, vịnh Bengal, Ấn Độ dương và biển Arabian.

 Tôi muốn đến đây vì mỏm đá sau cùng của Ấn Độ để nhìn ba dòng biển ấy gặp nhau và nhìn mặt trời. Nhiều du khách tìm đến đây cũng vì lý do ấy. Đứng quay lưng lại lục địa, trước mặt là Ấn Độ dương, phía trái là vịnh Bengal, phía phải là biển Arabian. Điều đặc biệt nơi đây, khi trăng lên phía Đông ở vịnh Bangal, mặt trời xuống phía tây bên biển Arabian, cả hai đều tròng trành trên biển đối diện nhau. Đây là nét đẹp của biển, của trăng, của mặt trời trên trái đất mà du khách gặp mặt cùng một lúc. Sóng nước dạt dào vô cùng tận. Bên đông trăng lên. Bên tây mặt trời xuống. Dang hai cánh tay, ta sẽ hứng cả trăng và trời.

 Lung linh, một quả cầu tròn đỏ ối rực xuống biển cả. Du khách đến đây chiêm ngưỡng mặt trời lặn. Tôi có mặt trong đám người đó chiều ngày mồng 5 tháng 4, năm 2001.

 *

 Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư:

 - Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày.

 Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò:

 

- Phân biệt con chó khác con mèo, nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không?

 Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp:

 - Đấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Đủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo.

 Sau cùng, người học trò tự thú:

 - Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm.

 - Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy?

 Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ:

 - Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không?

 - Đúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Điều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Điều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

 Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lui dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia...

 Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe.

 *

 Bạn thân mến, có khi nào bạn nhìn mặt trời buổi sáng với câu hỏi của nhà đạo sĩ kia chưa? Mặt trời chưa mọc mà hừng sáng, ta chưa gọi là ngày được, vẫn còn bóng tối, ta bảo đó là hừng đông. Hừng đông là đã có chút áng sáng nên cũng không thể gọi là đêm được nữa. Từ cái mềm mại như ngọn chuối non đến mầu xanh biếc của tàu chuối già, từ cái xanh nhẹ của ngọn mạ đến màu già dặn của lúa, đâu là lằn mức phân biệt? Mặt trời lên dần, vũ trụ ngái ngủ trở mình. Ta chưa gọi là ngày cho đến khi cái ngái ngủ kia thành thức tỉnh. Ánh sáng làm cho cái mềm ẻo của thời gian mơ hồ thành ngày. Nhưng đâu là biên cương giữa ngày và đêm?

 Ta thấy trong cuộc đời dường như cũng thế. Đâu là tiếp nối giữa hạnh phúc và đổ vỡ? Bao nhiêu hạnh phúc hôn nhân lúc ban đầu đẹp vậy mà ít năm sau, ta nghe những chuyện buồn, ta ngỡ ngàng thở dài nghe bạn bè cho hay tin, họ ly dị rồi. Đời mỗi người cũng thế. Có khi mình đang đặt sai về những giá trị cuộc sống mà chẳng biết. Đến khi hối tiếc, đã quá muộn màng. Đâu là biên giới của sắp sa ngã và sa ngã?

 Không phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, khi nào đêm chấm dứt, làm sao phân biệt được lúc nào ngày chấm dứt và đêm sắp bắt đầu? Thứ đêm và ngày trong ý nghĩa thiêng liêng. Làm sao phân biệt được khi nào hạnh phúc đang phai mờ và đổ vỡ đang đến? Làm sao phân biệt lúc nào giá trị thiêng liêng đang chấm dứt và giá trị trần thế đang lấn chiếm?

 Có khi ngày đang hết, đêm xuống dần mà không hay. Ta chần chừ, tưởng đời mình còn dài, trước ngưỡng cửa hoàng hôn mà cứ gọi là ngày.

 Có khi trước bóng đêm mà ta thản nhiên không phải ngày còn dài mà chỉ vì không phân được khi nào đêm bắt đầu.

 Đường thiêng liêng của linh hồn hay những chuyện tình cũng thế thôi. Họ không biết lúc nào vào bóng đêm, vì không biết tâm tình mình đang đi về đâu. Hòang hôn mà ta cứ tưởng là ngày.

 

*

 Đợi người học trò thật yên tĩnh, nhà đạo sĩ nói với môn sinh ông ta:

 - Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt!

 Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò:

 - Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ!

 Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò mình:

 - Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Đế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Đế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Đế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi.

 Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

 Không trả lời được con ạ. Đâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Đế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Đời quá đẹp.

 Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe.

 - Con ạ, Thượng Đế nói trong linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Đế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày! Lúc nào Thầy nhìn người tức giận, ghét bỏ, tham lam, thù hận đấy là đêm!

 Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu.

 Đi giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.

 Ông nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia.

 Ông đã chết.

 Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu.

 *

 Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.

 Ngày đó anh ta vui mừng vì được câu trả lời không phải vất vả tìm kiếm cả một đời như tôn sư anh. Xa Thầy, người học trò cắp sách vào đời. Chả bao lâu sau khi tôn sư chết, một chiều nọ nhìn mặt trời xuống biển, một sáng kia thấy mặt trời mọc trên đầu núi, nhìn lại câu trả lời của Thầy, anh bất giác nhận thấy đấy chỉ là tìm kiếm của riêng Thầy.

 - Đâu là câu trả lời của riêng ta?

 Anh tự hỏi vậy. Nếu lòng nhân ái bao dung là ánh sáng phân biệt đêm và ngày, ta có lòng nhân ái không? Câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

 Nhìn ánh bình minh sắp lên, trên triền núi đá sương đêm đang mờ mờ tan. Lúc nào ngày tâm linh bắt đầu, lúc nào đêm thiêng liêng chấm dứt?

 Nghĩ đến câu trả lời của tôn sư: “Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu hay óan thù nhỏ nhen. Đi giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.” Anh ta phân vân hỏi lòng:

 - Đó là câu trả lời của Thầy. Thầy đã đem một đời tìm câu trả lời ấy. Còn câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

 Anh tưởng rằng Thầy đã trả lời giùm. Không thể phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt bằng ánh mặt trời, mà bằng bao dung của con tim. Ngày ấy anh chợt vui vì câu trả lời không cần tìm kiếm. Nhưng nỗi nhẹ nhàng của tấm lòng lịm tắt ngay. Thầy hiểu thế trong trái tim và cuộc sống của Thầy. Còn chính ta, lòng ta có bao dung và ngày có bắt đầu? Câu trả lời của Thầy chỉ là gợi ý cho trí hiểu, còn chính ta, đời ta là ngày bắt đầu hay ngày đang chấm dứt? Ta phải tìm câu trả lời cho riêng ta.

 Anh lại trăn trở, câu hỏi ấy không đơn giản, và biết mình sẽ phải đem theo cả đời để trả lời câu hỏi ấy.

 Vị đạo sĩ đã bỏ những ngày thách đố chính mình ngồi nhìn hoàng hôn, bỏ những ngày dõi theo ánh bình minh. Ông quay về tìm ánh sáng trong cõi lòng. Tìm được rồi, ông bình an bỏ luôn cõi đời bước vào ngày ngàn thu vĩnh cửu. Nơi chỉ còn ánh sáng không còn đêm.

 Rồi tôi cũng từ giã vùng biển Comorin. Trên chuyến xe đò về hướng Bắc tôi sẽ bỏ lại biển cả và mặt trời. Tôi biết ngày mai, rồi tiếp tục ngày mai nữa, thế kỷ nữa và nhiều thế kỷ nữa du khách sẽ kéo nhau ra mỏm đá này nhìn mặt trời. Trong trái tim mỗi đời người, trong chuyện tình cuộc sống của họ, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

 Ngày mai tôi lên đường. Đến lúc tôi phải bỏ lại biển cả và mặt trời, bỏ lại ghềnh đá và dòng nước, giữ lại trong tâm tư thôi vì nếu không, làm sao tiếp tục cuộc hành trình.

 

  Nguyễn Tầm Thường

  Trích tập NHỮNG TRANG NHẬT KÝ CỦA MỘT LINH MỤC

Mục lục

 

 

Text Box: Trang Nhà Tin vui (website)  http://www.tinvui.org
Thư từ, ý kiến, và bài vở xin gửi  về  bantreconggiao@yahoo.com
Muốn nhận báo cũ và mới xinQuý Vị gửi về tinvuivietnam@gmail.com.
CHÂN THÀNH CÁM ƠN
?¶?